Dương Đình Giao
Người thân nằm xuống, trong đám
tang, có nhiều nghi lễ, tập tục vẫn được thực hiện nhưng nhiều người
không hiểu vì sao cần làm như thế, nên dẫn tới hoặc là lạm dụng, hoặc
làm sai lệch, không còn ý nghĩa gì.
Trước hết là
tang phục. Người xưa quy định tang phục của mỗi người trong gia đình
khác nhau, mục đích là khách lạ tới, chỉ cần qua đó có thể biết phần nào
về thứ bậc, vai trò của người ấy trong gia đình. Nay nhiều nhà lý sự
rằng coi “rể cũng như giai” nghe rất tân thời nên tang phục của đàn ông
như nhau cả. Họ quên quan niệm của người xưa (và có cơ sở để nay vẫn
đúng) “rể là khách”. “Rể cũng như giai” có lẽ mãi mãi chỉ là ước muốn dù
có tới xã hội “công bằng dân chủ văn minh” cuối thế kỷ cũng vẫn chỉ là
mơ ước. (Mà có lẽ cũng chẳng nên ước làm gì!)
Gần đây, để tránh rườm rà,
nhiều gia đình thay tang phục cũ bằng đồ tang màu đen, chỉ còn giữ cái
khăn trắng, một nét văn hóa riêng. Có lẽ cũng nên có sự thay đổi này.
Xưa dùng vải sô và dây gai (gọi chung là đồ sô gai) là để tỏ cái đau đớn
đến mức trễ nải việc ăn mặc trông thêm phần tiều tụy, tang thương. Đó
chỉ là cái hình thức, khiến mất sự trang trọng, nhất là với khách tới
viếng một khi xã hội đã văn minh. Niềm thương tiếc đâu chỉ có một cách
thể hiện, cũng chẳng cần phải quá trọng vẻ ngoài.
Ngay từ thời
Tây, chính quyền đã có quy định người chết chậm nhất sau 24 giờ phải
được chôn cất , điều này phù hợp với phép vệ sinh., hầu hết mọi nơi đều
thực hiện. Từ ngày các nhà xác ở bệnh viện hoặc nhà tang lễ có cái nhà
lạnh, thi hài được bảo quản nên quy định này bị xem nhẹ. Gia đình có lý
do chính đáng như con cháu ở xa chưa về kịp thì thật tiện lợi, nhưng
cũng không ít người lạm dụng vì chờ đợi “ngày lành giờ tốt” và cũng
không phải không có kẻ chức cao quyền trọng, lợi dụng đám tang, chờ
đợi người từ xa đến phúng viếng, tranh thủ kiếm thêm cái phong bì. Tôi
đã thấy có đám tang do sự chờ đợi, thi hài để lâu ngày bị biến dạng, tới
khi khâm liệm, không còn thấy được một nét nào quen
thuộc trên hình hài của người quá cố. Ngậm ngùi, xót xa nghĩ, không
biết người ta kéo dài sự chờ đợi vì ai, vì người đã khuất hay chỉ vì
người còn sống?
Gần đây thấy
phổ biến tình trạng kiêng kỵ khi khâm liệm. Người ta cho rằng những ai
có tuổi “xung” với tuổi người chết đều phải lánh mặt vào lúc này. Cứ
tới giờ khâm liệm là thấy thầm thì to nhỏ, người nọ truyền cho người kia
như ai cũng “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” cả. Theo tôi
hiểu, hai giờ khắc thiêng liêng nhất vĩnh biệt người đã khuất là khi
khâm liệm và lúc hạ huyệt. Giờ phút khâm liệm là lần cuối cùng thấy mặt,
ký ức cuối cùng của người đã khuất đọng lại với người còn sống; còn khi
hạ huyệt là từ nay “âm dương cách trở”. Cho nên vào lúc này, những
người ruột thịt không thể vắng mặt. (Cũng như khi cải táng, giờ khắc
thiêng liêng là khi mở nắp quan tài và hạ huyệt, hạ huyệt lúc này đúng
là vĩnh biệt). Đời sống tâm linh chính là biết những điều này để trân
trọng chứ hoàn toàn không phải để kiêng kỵ, sợ hãi những thế lực vô
hình khiến tình cảm của con người bị xúc phạm rồi mải miết khẩn cầu xin
xỏ mà chẳng biết được hay mất? Nhiều năm trước, một người thân của tôi
qua đời. Bà không ít con cháu, nhưng tới giờ khâm liệm, thấy chỉ có mặt
ba người con cả dâu rể cùng họ hàng, bố tôi (khi ấy chưa tới 80 tuổi
nhưng là bậc cao niên nhất trong họ) hỏi nguyên nhân, được nghe giải
thích những người con khác đang tránh mặt vì kiêng cữ, liền lớn tiếng:
- Con nhà vô phúc! Giờ phút cuối cùng thấy mặt mẹ lại dám bỏ đi!
Nghe thế, mấy ông bà con cái,
dâu rể phải xuất hiện. Thế mà mãi 23 năm sau, chính người con không
kiêng cữ gì mới mất (cũng đã trên 70 tuổi), còn những người định lánh
mặt vì sợ hãi thì tới nay (sau 29 năm), đều đã trên 70 tuổi và vẫn khỏe
mạnh.
Những người
tới phúng viếng các đám tang trước đây, hầu hết đều với tư cách cá
nhân, người ta thường mang theo hương nến, hoa quả, vừa phù hợp với túi
tiền vừa để tang chủ sử dụng về sau, tránh phí phạm. Các cơ quan đoàn
thể tới phúng viếng, thường dùng vòng hoa, có lẽ do thế mới “xứng tầm”,
chẳng lẽ một đoàn đông người, lại với tư cách tập thể mà cũng chỉ có
chút đồ lễ như của từng cá nhân riêng lẻ. Rồi dần, vòng hoa trở thành
phổ biến. Nay vòng hoa chỉ được cái vẻ ngoài “hoành tráng”, ngoại trừ
một vòng lá xanh (được sử dụng quay vòng), còn lại toàn hoa giả (nhựa,
ni-lông) cắm trên một cái đế bằng “xốp”. Tất cả đều là những đồ phế
thải trong việc bảo quản hoa quả của “ông bạn vàng”, may có vài bông
hoa thật thì cũng đã thuộc loại héo úa nếu không dùng ở chỗ này chỉ
quẳng vào sọt rác. Ta có nên dùng những của vứt đi này để đại diện cho
lòng thương tiếc của mình?
Vòng hoa là dành cho khách chia
buồn với tang chủ, tỏ chút lòng thành với người đã khuất (khó tìm được
cách nào khác). Chẳng hiểu vì sao, nhiều nhà con, cháu cũng có vài cái
vòng hoa “kính viếng” ông bà, cha mẹ. Lạ thật! Nỗi buồn là đích thị của
mình, định chia sẻ với ai? Tình cảm với người thân yêu thể hiện trong
việc chăm sóc chu đáo, nâng giấc, thuốc thang khi ốm đau, cẩn trọng vẹn
toàn khi lo hậu sự và không sơ xuất, trễ nải khi hương khói, cúng giỗ về
sau, .. sao lại coi mình như người ngoài để phải dùng vòng hoa thể hiện
tình cảm? Nếu muốn, cần có lẵng hoa, tràng hoa đặt trên quan tài phân
biệt hẳn với những vòng hoa của khách.
Chẳng biết học ở đâu, có những
đám tang giờ lại xuất hiện cái nhân vật thường được gọi bằng cái tên
“tây” “Em mờ xi” (MC). Người này được thuê tiền để dùng cái giọng lên
bổng xuống trầm, nỉ non thánh thót tỏ lòng thương tiếc giả dối người
đã khuất, khéo léo khoe với thiên hạ cái công chăm nom, cái lòng hiếu
kính của con cháu. Vừa ầm ĩ xóm giềng vừa huyênh hoang trơ tráo, cũng
chỉ là một kiểu khóc mướn “đời mới”! Người tử tế chẳng nên theo!
Đưa linh cữu ra nghĩa trang xưa
thường là dân làng giúp đỡ. Dù phần lớn thanh niên trai tráng nhưng quan
tài cùng với sức nặng của cỗ đòn khiêng bằng gỗ tốt cũng khiến cho đám
trai làng phải oằn lưng. Đường ra cánh đồng đâu có phẳng phiu, lại thêm
những tục lệ xưa cũ, nào chống gậy đi giật lùi, rồi lăn đường gào khóc,
cảnh “bước đi một bước giây giây lại dừng” khiến cho đã nặng lại càng
nặng. Người ta cho rằng ma quỷ níu chân người khiêng để giữ người chết
lại. Thế là tục rải vàng thoi ra đời, cốt để “hấp dẫn” ma quỷ, mong
chúng mải tranh cướp mà giảm bớt gánh nặng cho đám đô tùy nghiệp dư, chứ
hoàn toàn không phải đánh dấu đường về nhà (như nàng Mị Châu rải lông
ngỗng) để người đã khuất khỏi quên như mấy ông thầy tự phong lý giải.
Nay, ở thành phố đã có xe tang chạy bằng động cơ, nông thôn ít nhất cũng
có xe đẩy bằng sức người, chẳng có ma quỷ nào có thể níu giữ, nhưng
người ta vẫn giữ tục “thoi vàng vó rắc…” như Nguyễn Du đã mô tả trong
Truyện Kiều. Thiết nghĩ biết như thế (cũng như việc đốt các đồ mã) để
chỉ nên giữ như một nét văn hóa, không nên lạm dụng, vừa tốn kém lãng
phí, vừa gây ô nhiễm môi trường, khổ cho người làm sạch xóm ngõ, phố
phường.
Gần đây, có tình trạng dân
thường làm đám tang học theo lối tổ chức của quan chức cấp cao, nông
thôn thì học theo lối thành phố bất chấp hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau.
Người chết ở gia đình, được con cái lo tang ma cũng có ban tổ chức lễ
tang in trên tờ giấy to tướng trưng với thiên hạ; (có nơi còn có tiết
mục đọc danh sách ban tổ chức tang lễ trước khi làm lễ truy điệu); đám
tang tổ chức ở nhà riêng, người tới phúng viếng rải rác suốt ngày đêm
không bị hạn chế thời gian như đám tang ở thành phố chỉ diễn ra trong
vài giờ đồng hồ, cũng học đòi bàn đăng ký vào viếng; toàn người trong họ
ngoài làng cũng “réo” loa tên tuổi, chức phận (họ giải thích làm thế
để cho người chết biết). Đây đích thị là những hủ tục mới.
Theo tục lệ,
người mới mất được lập bàn thờ riêng bên cạnh bàn thờ chính trong gia
đình. Dù có sơ sài, vì chỉ tồn tại trong thời gian chưa cải táng nhưng
bàn thờ này cũng được chăm chút rất cẩn trọng.
Việc thờ cúng không thể thiếu
hương. Thường có hai loại, hương nén và hương vòng. Mỗi nén hương có
thời gian cháy khoảng 40 phút, còn loại hương vòng bình thường, có thời
gian cháy khoảng 12 – 14 giờ. Thông thường, mỗi khi có dịp cúng giỗ,
thắp hương nén. Đêm, trước khi đi ngủ, thắp hương vòng, để bàn thờ trong
những ngày này luôn ấm cúng bởi đèn nhang, tránh cảnh khói tàn hương
lạnh.
Nhưng sao trên ban thờ của người
mới mất không được thắp hương vòng? Các “thầy” thường giải thích vì nếu
thắp hương vòng, hồn người chết sẽ quẩn quanh, không thể siêu thoát
(!?).
Thực ra, đạo hiếu quy định con
cái phải chịu tang ba năm (xưa, quan lại khi có đại tang, cha mẹ mất,
phải cáo quan về nhà chịu tang, hết ba năm mới trở lại nhiệm sở). Trong
những ngày để tang cha mẹ, người con trưởng không được phép đi xa,
thường gọi là “cư tang” (ở nhà chịu tang), luôn có mặt ở nhà để lo
chuyện đèn nhang, không bao giờ được lơ là, đó chính là thể hiện lòng
hiếu kính, thương tiếc khi cha mẹ qua đời. Không được thăp hương vòng
chính là tỏ việc thờ cúng chu đáo. (nếu thắp một vòng hương, có thể ra
khỏi nhà suốt ngày). Trước khi đi ngủ, thay hương nén bằng hương sào
(que hương lớn và dài hơn, có thể cháy trong 4, 5 giờ, đủ qua đêm).
Người ta cho
rằng, người mới chết, chưa sạch sẽ nên chưa thể đưa lên bản thờ chung.
Việc này chỉ có thể thực hiện sau khi cải táng, nghĩa là sau khi thi thể
đã phân hủy, chỉ còn lại phần xương cốt, có thể tồn tại sau thời gian
dài. Nhưng tôi nghĩ đó chỉ mới là phần “thể phách”, cái “sạch sẽ” ở đây
còn ở phần “tinh anh”. Bất kỳ ai, dù khi còn sống, có mẫu mực khuôn phép
đến đâu cũng khó tránh khỏi những điều ong tiếng ve, sao tránh được
hoàn toàn những lời đàm tiếu của thiên hạ, dù là những dư luận, đồn
đoán, …nhiều khi thiếu căn cứ. Dù sao, với những người còn mang những
tiếng thị phi, cũng tuyệt đối chưa được nhập vào thế giới anh linh của
tổ tiên ông bà. Phải có thời gian (thường là ba năm) cùng với sự mất đi
của hình hài, những lời nọ tiếng kia đã phai nhạt, người mất mới được
gia nhập thế giới thiêng liêng, trở thành đối tượng được mọi tầng lớp
cháu con ngưỡng vọng, tuyệt đối tôn vinh, mãi mãi sống trong tâm linh
các thế hệ sau
Đó là trong mỗi gia tộc, còn
chung cho cả cộng đồng như Thiên chúa giáo, người tử vì đạo, dù có dũng
cảm, xả thân ra sao nhưng cũng phải chờ tới cả trăm năm mới được tôn làm
bậc Thánh. Cho nên, thấy có người mới nằm xuống, lời khen tiếng chê còn
chưa dứt, đã mang tên để đặt cho phố phường, rồi coi là bậc thánh;
người còn bao lời đàm tiếu, cười chê đã được đúc tượng, lập đền thờ thì
quả những kẻ chủ trương to gan, không còn biết thế nào là lề luật, bất
chấp tất cả chỉ biết nhắm mắt làm những điều quàng xiên.
0 Nhận xét