MỤC ĐỒNG VÀ ĐẠO SĨ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chu
kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng vụ cử hành việc
Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ
lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh.
Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar,
Melchior và Balthasas là ba nhà đạo sĩ nổi tiếng ở Ðông phương được
mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ
đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđêa để thờ lạy Ðấng Cứu Thế. Họ đã
dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chỉ có hai hạng người đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem. Đó là các mục đồng và những nhà đạo sĩ.
Ðức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: Anh
em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin
mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong
thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa (Lc 2,10-12). Còn
các đạo sĩ ở bên kia xứ Mêđia và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một
ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên
Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như
những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ
tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài
Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người
tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó
là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông
thái.
Các
mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn
chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên
họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin
mừng. Thiên Thần cho biết, Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong
hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của họ.
Các
đạo sĩ tìm gặp Ðấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là
những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là
những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám
phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào
hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất
chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người
đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường
khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi
thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự
phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một
dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi
theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm
phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa
thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm
hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ
hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư
Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được
Ðấng khôn ngoan.
Chỉ
có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi
đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ:
“Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền
thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người
tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy
mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế
phức tạp cứng nhắc” (Ðức Cha Bùi Tuần).
Thời
nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người
vô thần theo thuyết bất khả tri…nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một
thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu
ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý
trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết
đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý
do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ
coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Ðiều
kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung
cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các
mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả.
Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi
vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa
Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài
đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là
một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để
nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại
đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi
tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ
trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen
với các Mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự
khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Thiên
Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là
Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không
phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình
đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các
Thượng tế, các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê
rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh
Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp
với những quan điểm cố định của họ.
Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên
Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của
trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích,
qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường.
Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người
nhận biết và yêu mến Chúa.
2. Theo ánh sao
Trầm Thiên Thu
Ngày
nay gọi là lễ Hiển Linh, ngày xưa gọi là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ
có 3 người mà nhiều người, họ không phải là những Quốc vương mà là các
đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ từ Đông phương xa lắc
xa lơ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến Belem để diện kiến chính
Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể,
làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả
thật, đó là “độc chiêu” mà Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân.
TÌM CHÚA
Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con từ mấy ngàn năm trước và nay đã hiện thực đúng lời hứa đó: Ngôi Hai làm người.
Chúng
ta là những người nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được
Đức Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, được thừa nhận là con
của Thiên Chúa, vì thế ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng
lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình
minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ
lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh
quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2).
Thật
hạnh phúc biết bao! Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con
cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng
niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is
60:4). Thế nên chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng
rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như ngày hội và vui như tết.
Hài
Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang
vu Belem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng.
Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài
theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6). Các vua
chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua
Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục
vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội
lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất”
(Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10).
Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết,
thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng
ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8).
Thế
nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình
thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân
vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv
72:11). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân
từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật.
Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát
bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương
ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv
72:12-13).
Các
nhà hiền triết từ Đông phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một “dị nhân”
vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và
quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã
dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh.
Thấy
vậy, nếu là chúng ta, chưa chắc đã bước vào, thậm chí có thể kéo nhau
quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu!
Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu
có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có
hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu
ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với
“mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn không hề thất vọng và tin thật
rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm
bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y
như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật “chăm phần chăm”.
Không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã
chuẩn bị và đem theo.
Ngày
nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn
Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ nếu tận mắt chứng kiến thì chắc
chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có tên là Giêsu kia lại chính
là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là chúng ta may mắn.
Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho
tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm
Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho
những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay
Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của
Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong
Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia
nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ
điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).
Một
lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia
nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên
Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động”. Đó
là…
VÀO ĐỜI
Chúa
Giêsu là Thiên Vương, tất nhiên Đức Maria là Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse
là Phụ Vương – dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ
trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui
vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ
từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh
xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng húm rồi. Sau đó lại được đám mục
đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an
ủi phần nào nơi đất khách quê người. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ
phim “khổ” kéo dài nhiều tập…
Thời đó là lúc vua Hêrôđê trị vì, thấy mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm: “Đức
Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt
2:1-2). Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa, xay xẩm mặt mày, cả thành
Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông
liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi
cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” (Mt 2:6). Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8).
Nghe
nhà vua nói thế, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê “khẩu
Phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng”
của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương
Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài
Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2:11).
Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Sau
khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo
mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ
mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp
rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách
hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh
dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân.
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ là miệt mài
tìm Chúa và can đảm hành động. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn
lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực hiện mọi sự
theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse,
xin nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai,
Thiên Chúa của chúng con. Amen.
3. THIÊN CHÚA CỦA MUÔN DÂN MUÔN NGƯỜI
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I/ DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nhà văn hào George W. Truett đã viết một câu bất hủ về Chúa Giê-su Ki-tô như sau: “Christ
was born in the first century, yet he belongs to all centuries. He was
born a Jew, yet He belongs to all races. He was born in Bethlehem, yet
He belongs to all countries.” (tạm dịch: Đức Ki-tô sinh ra
vào thế kỷ thứ nhất, nhưng Người thuộc mọi thế kỷ. Sinh ra là một người
Do-thái, nhưng Người thuộc mọi chủng tộc. Sinh ra ở Bê-lem, nhưng Người
thuộc mọi quốc gia). Câu nói trên khá phù hợp với ý nghĩa của Lễ Hiển
Linh hôm nay.
Thật
vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình. Mừng Lễ Hiển Linh là
chúng ta mừng sự kiện Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại được biểu trưng
bởi ba nhà thiên văn hay chiêm tinh Phương Đông lặn lội theo ánh sao đến
xứ Giu-đê tìm Thiên Chúa mới giáng sinh. (Vì thế Lễ được gọi là Lễ Ba
Vua).
Sự
kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, vì từ trước tới giờ, người Do-thái
quan niệm rằng: Thiên Chúa là Thiên Chúa riêng của họ. Thật ra Thiên
Chúa là Chúa của muôn dân, muôn loài, của người Do-thái cũng như của các
dân khác. Nói cách khác Ơn Cứu độ Thiên Chúa ban cho nhân loại là Ơn
Cứu độ phổ quát nghĩa là dành cho hết mọi dân, mọi nước và mọi người,
không phân biệt mầu da, chủng tộc, giai tầng xã hội. Chúng ta hãy mở
rộng tâm trí để hiểu và sống ý nghĩa của Lễ Hiển Linh.
II/ LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
1/ Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 60,1-6): Vinh quang của Đức Chúa chiếu tỏa trên ngươi.
2/ Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Ep 3,2-3a.5-6): Nay mầu nhiệm được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp.
3/ Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 2,1-12): Từ Phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người.
III/ KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
1/ Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
* Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a
công bố là một Đấng Thiên Chúa đem niềm hân hoan và ánh sáng chan hòa,
đem giầu sang và vinh quang đến cho thành Giê-ru-sa-lem, thủ đô của
Ít-ra-en. Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa thành một con người và con
người này đã được biến đổi hoàn toàn, thậm chí trở thành điểm tập trung
của muôn dân muôn nước, nhờ sự kiện Thiên Chúa đến trần gian, trong nhà
Gia-cóp.
* Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô
muốn giới thiệu với tín hữu Ê-phê-xô và mọi người là một Đấng Thiên
Chúa đã giao phó cho Phao-lô sứ mạng rao giảng Kế hoạch hay Nhiệm cục
Cứu độ của Người: đó là dân ngoại cùng được thừa kế như/với người Do
Thái để cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa
ban là Ơn Cứu độ trong/nơi/nhờ Chúa Ki-tô Giê-su. Nói cách khác
Phao-lô được giao sứ mạng loan truyền một bí mật xưa rày vẫn được giấu
kín của Thiên Chúa. Đó là, vì yêu thương, Thiên Chúa sẽ cứu độ hết mọi
người, không phân biệt mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc hay địa vị
xã hội, có đạo hay lương dân.
- Thiên Chúa mà Thánh Mát-thêu
muốn thế giới nhận ra là Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và làm một
trẻ sơ sinh được bọc tã nằm trong máng cỏ; nhưng lại là Đấng thu hút và
đón tiếp hết mọi người, từ kẻ chăn chiên nghèo hèn (theo con mắt phàm
trần) đến hạng quan quyền vua chúa (cũng theo con mắt phàm trần) như ba
nhà thiên văn từ Phương Đông. Thái độ và cử chỉ (sấp mình thờ lạy)
cũng như lễ vật (vàng, nhũ hương, mộc dược) mà ba nhà thiên văn Phương
Đông dâng tiến Hài Nhi Giê-su, mạc khải cho chúng ta thấy chân dung đích
thực của Trẻ Sơ Sinh: Người là Vua, là Chúa và là Đấng sẽ tự hiến thành
Lễ Vật toàn thiêu cứu độ muôn dân muôn nước.
2/ Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?) Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa:
- một là chúng ta hãy nhìn nhận, đón rước Hài Nhi Giê-su với tư cách Người là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu Chuộc hết mọi người trong nhân loại, không phân biệt nguồn gốc, địa vị xã hội.
- hai là, cũng như Thánh Phao-lô, chúng ta được Thiên Chúa giao một sứ mạng cao cả là làm cho người ta biết kế hoạch của Thiên Chúa
là Ngôi Lời đến trần gian để cứu chuộc hết mọi người, giáo cũng như
lương, để mọi người, mọi dân, mọi nước làm thành một Thân Thể, một Gia
Đình, một Cộng Đồng duy nhất. Vì thế chúng ta có sứ mạng làm chứng cho
Tin Mừng và rao giảng Tin Mừng cho những người chung quanh.
IV/ SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
1/ Sống với Chúa
là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã
trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống
một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
2/ Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là chúng ta thực hiện hai việc cơ bản sau:
- Một là cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng, nhìn nhận và đón rước Hài Nhi Giê-su là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu độ nhân loại.
-
Hai là đặc biệt quan tâm đến những người sống chung quanh ta mà chưa
nhận biết Thiên Chúa và Chương Trình Cứu độ của Người để chúng ta ra sức
giúp họ nhận biết Chúa và chấp nhận Kế hoạch và Ơn Cứu độ Phổ quát của
Người.
V/ CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
1/ «Mầu
Nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được
cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể
và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban.» Chúng ta hãy
hiệp dâng lời cầu: cho các dân tộc chưa nhận biết Mầu Nhiệm và Kế Hoạch
Cứu Độ nhân loại của Thiên Chúa, để họ sớm được nghe và đón nhận Ngôi
Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để quy tụ muôn dân muôn nước thành
một gia đình, gia đình của Thiên Chúa.
X/ Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ/ Xin Chúa nhận lời chúng con.
Đ/ Xin Chúa nhận lời chúng con.
2/ «Đức
Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao
của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho mọi thành
phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo
sĩ, để mọi Ki-tô hữu chu toàn sứ mạng làm ngôi sao dẫn đường cho những
ai chân thành tìm kiếm Thiên Chúa và giúp họ gặp được Chúa và tôn vinh
Người như ba nhà thiên văn Phương Đông xưa!
3/ «Bấy
giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ
đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ
mừng rỡ vô cùng.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho
các tín hữu già trẻ lớn bé trong giáo xứ chúng ta để mọi người vững bước
dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.
4/ «Họ
vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp
mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương
và mộc dược mà dâng tiến.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời
cầu: cho những người bé nhỏ, nghèo khó, thiếu thốn, bệnh tật, tù tội…
trong xã hội, để những người ấy biết dâng cho Hài Nhi Giê-su tất cả
những gì họ có, tất cả những gì họ phải chịu trong cuộc đời.
ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
Phúc
Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy
kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao
lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi
dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện
trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa
chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên
kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là
tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem
là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng
chỉ biết bàn ra.
Nhưng
giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa
ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với
những đặc tính tiêu biểu:
1/ Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những
vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do
Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác
nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi
sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm
kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác
định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và
vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên
đường không mỏi mệt.
Khởi
điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng
trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở
nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời
đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy
giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng
bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và
gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp
nhận.
Tương
tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành
cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí
thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên
đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý
Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo
hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ
đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2/ Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là
hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi
nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử
luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không
chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức
bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử
đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng
bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa
kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng
đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào
giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh
nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa
rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong
dân.
Đêm
Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran
chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa
thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc
bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh,
chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử
thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng
làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử
thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi
con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm
tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước
thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm
tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3/ Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không
phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có
nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì
còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm
tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng
hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương
là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để
diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục
bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương
sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo
vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài
đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những
người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa
chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng
đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá
rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của
Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm
điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng
phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ
các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể
sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng
hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống
như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân
“Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là
giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể
đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách
biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm
lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác
vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết
chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa
mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ
mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho
mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và
gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của
kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính
trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm
tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích
với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
5. Gặp được Chúa Cứu Thế
Radio Veritas Asia
Hôm
nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và
Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền
đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá
ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc
lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa
Cứu Thế.
Như
ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình
ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý
nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra
cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi
trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi
bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên
tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang
của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái
nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng
thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn
nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ
ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng
vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được
gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt
là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần
gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi
Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi
nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng
bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem.
Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao
những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu
bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ,
ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài
đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự
giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài
đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông
đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao
la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người
thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của
Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn
chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên
Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên
Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử
trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài
Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta
cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người
không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì
gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con
đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa
vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ
diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba
vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có
chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là
ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc
dược.
Về
tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX
người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có
nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của
những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta
suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do
Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình
ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn
luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay
bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ
lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình,
của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng
với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài
Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích
lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để
có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của
Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám
chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người
thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ,
đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của
sự sống bất diệt trên thiên quốc.
6. Gặp Chúa
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Một
cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng
chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi
đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên,
đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở
túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và
mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu
bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ
cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự
ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi
đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chổ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy
đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu
là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi
cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn
ngập tràn trong ánh mắt cậu: – Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi
làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài
đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo
làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo
làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có
nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm
than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài
qua những người đói, rách, tù đầy…
Cậu
bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên.
Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có
thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã
giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là
mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh
thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà
lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm
xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga,
nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới
hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài
nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những
lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền
bính của vị quân vương.
Hôm
nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của
Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những
người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt
vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân
phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy
nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi
chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng
biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
7. Cuộc hành trình đức tin
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào
thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì
sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người
được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này
cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng
trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện,
nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì
dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan
báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch
sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy
cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã
viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có
người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian
4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời
gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ
Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13).
Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ
sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến
tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi
Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật
đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận
biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi
Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi
Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế
giới.” (William Barclay).
“Đức
Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”
(Mt.2,2).
Họ
bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm
tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ
đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý
nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng
là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải
chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước
nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật,
thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài
người” (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua
nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên
khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng
lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ
dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch
sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào
Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền
hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con
cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị
ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo
của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà
vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi
hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền
Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem,
miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt. 2,4-6).
Các
thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ
của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền
thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có
Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ
đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con
đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của
người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan
tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở
quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi
lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không
đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh
dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà.
Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn
năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công
danh thấy cũng không đến đâu.
Ở
quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ
xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với
Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ
lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng
bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của
anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”,
rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi
bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức
vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà
anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người
trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó
không?”.
Đã
hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời
gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với
nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả.
Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành
tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ
của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với
Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy
Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin
(đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu
không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại
vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên
Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng
ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những
thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những
hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu
chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù
thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời
nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở
lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng
vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy
để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài
thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm
lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì
người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một
bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình
yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn
đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua
muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên
ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có
điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có
lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối
cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống
uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú
trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết
gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô
tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới.
Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô.
Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô
vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải
đi đâu nữa.
Chợt
cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía
sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một
con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã
xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té
xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con
vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối
cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó
là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ
gì đang muốn hãm hại cô.
Con
dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn
đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức.
Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi
lúc một gần cô hơn. Gần hơn… rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong
khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen
không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc
huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu
Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến
Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa
nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng
một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc
hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh.
Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn
tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
8. Ánh sao đạo đức
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm
nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua
là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh
sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và
được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các
Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các
Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi
tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao
mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức
mến.
Ngày
nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để
theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần
có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm
đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng
ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành
một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là
ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi
chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính
cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên
Chúa.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu
độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một
trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.
Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải
vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc
đời.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu
người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ
tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ,
bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi,
con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng,
niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa
được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua
tình bác ái với tha nhân.
Tất
cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm
vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối
thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn.
Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân,
tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy.
Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế
giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở
thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh
sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/ Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2/ Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3/ Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
2/ Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3/ Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
9. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chính
những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa,
soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng
xóm chúng ta.
Theo
ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của
vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì
ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng
thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi:
“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người,” thì
vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy
giờ “nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân
lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại
Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi,
hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
(Mt 2, 4-6)
Thật
bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại
sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé
của miền Giu-đa.
Như
thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần
của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng
sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để
thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba
vị không ngờ trước được.
Hôm
nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho
chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn
giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh:
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.”
(Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy
ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? – Ở nơi
mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật
quá bất ngờ !
Ba
nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh
ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp
Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài
một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng
ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao,
Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh
đường… Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong
thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết:
“Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình.
Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con
cái trong gia đình.”
Qua
dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa
Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ
một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới
hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những
ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời
gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự
đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng
được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi
chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn
đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có
tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: “Saolô, tại sao ngươi bắt bớ
Ta?” Phaolô hết sức kinh hoàng: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ
trời đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm
đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng
chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt
lời nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể
của Đức Kitô sao?” (I Cr 6, 15).
Chính
những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem
năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình,
trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ
vật cho Người.
Lễ
vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một
tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học
hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta.
Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì
chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
10. Suy niệm của
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ
Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm
Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa
nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một
dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố
Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để
nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người
(xem Ga 1,18).
1/ Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua
cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân
tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa”
và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới
nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của
Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng
dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính
ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn
làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn
sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh
bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó
vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một
vương quốc mới.
Ngôn
sứ I-sai-a sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế
để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên
Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông
dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua
đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao
đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban
cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn
dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên
Chúa”.
Nhưng
vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người?
Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua
việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa
đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được
sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang
của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện
một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là
Mầu nhiệm Đức Kitô.
2/ Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần
học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa
làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn
mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu
rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp
trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận
cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái
Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô
gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như
những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và
làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng
nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại
và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu
nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis).
Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh
Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh
Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là:
trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế
gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia
sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người,
tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ
cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc
giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ
của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại.
Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi
lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu.
Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa
điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể
tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Kitô
Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ”
(Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức
Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể
Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và
sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu
độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được
Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là
nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ.
Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ
trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết
tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên
Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu
Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng
làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ
không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà
rao giảng, nếu không được sai đi?… Nhưng không phải mọi người đều đã
vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã
tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà
nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3/ “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng
không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải
cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng
quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu
truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong
khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực
điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được
sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó
là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng
Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ
ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các
nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua
Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp
được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh
các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây
chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình”
không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà
Cha trên trời.
Bài
Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư
thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ,
hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4/ Sống Lời Chúa
Thiên
Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần
nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người
là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều
đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai.
Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ,
trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa.
Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô
như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ:
Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ
lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là
lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước
đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ
bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân
nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin
dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng
Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
11. BƯỚC ĐI THEO ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI LỜI CHÚA
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Lễ
Hiển Linh là lễ Biểu Lộ và Mạc Khải Đấng cứu thế cho muôn dân. Ba Vua
là hình ảnh của các dân tộc, nhiều người khác nhau thuộc các thế hệ khác
nhau trong nhân loại đã biết chân thành tìm kiếm và nhìn nhận Đấng cứu
thế mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Lễ Ba Vua biểu lộ sự chiến
thắng ngay từ đầu của Đấng cứu thế trên những thế lực của tội lỗi và sự
chết đang cầm giữ nhiều người, luôn muốn từ chối Đấng cứu thế.
Vào
thời Chúa Cứu thế, ba Vua là những nhà chiêm tinh, những người vốn
thường tìm hiểu ý nghĩa của những biến cố xuyên qua các dấu chỉ. Đời
sống của họ cũng hòa hợp với những gì họ hiểu biết, vì thế khi nhận ra
dấu chỉ của ngôi sao lạ, họ đã mau mắn lên đường theo dấu ngôi sao lạ để
tìm đến thờ lạy vua người Do thái mới giáng sinh. Họ đã bỏ quê hương xứ
sở để lên đường đến Giêrusalem và chân thành tìm kiếm để thờ lạy vị vua
giáng sinh này. Khi đến Giêrusalem, họ đã không ngần ngại hỏi thăm và
tìm kiếm hài nhi để thờ lạy : « Vua người do thái mới sinh ở đâu ? Chúng
tôi nhận thấy ngôi sao của người hiện ra ở Đông Phương và chúng tôi đến
để triều bái người. » Thánh sử Matthêu muốn diễn tả sự biểu lộ của Vinh
quang Giêrusalem khi giờ Chúa viếng thăm đã được các tiên tri loan báo,
khi mà mọi dân tộc sẽ tuốn về từ muôn phương cùng với những lễ vật.
Đồng thời, đứng trước sự biểu lộ của Vinh quang Thiên Chúa, mỗi người
được đặt trước một chọn lựa quyết định : đón tiếp Thiên Chúa Mạc khải
nơi hài nhi vừa giáng sinh hay khép kín lòng mình trước lời mời gọi yêu
thương của Thiên Chúa chỉ vì sợ mất quyền lợi và địa vị bản thân.
Thánh
Matthêu mô tả sự trái ngược giữa thái độ của những nhà đạo sĩ đông
phương và thái độ của dân chúng ở Giêrusalem và của Hêrôđê. Những đạo sĩ
đông phương, mặc dù là những người xa lạ, nhưng đã biết chân thành đón
nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi sao lạ. Họ đã đáp lại dấu chỉ của mạc
khải của Thiên Chúa một cách kính cẩn và nghiêm túc, và đã đến để triều
bái người. Trong khi đó thì dân chúng ở Giêrusalem, vốn là những người
gần gũi và là những chủ nhà, lẽ ra họ phải là những người trước tiên đón
tiếp Đấng cứu thế được ban tặng cho họ, lại tỏ ra bối rối, không sẵn
sàng trước biểu lộ của mạc khải Thiên Chúa cho họ. Thái độ bối rối này
được diễn tả qua thái độ của Hêrôđê và những đại giáo trưởng và luật sĩ
thân cận của ông. Với lời cố vấn của những người thân cận, Hêrôđê đã trả
lời chính xác cho các nhà đạo sĩ nơi chốn của Đấng cứu thế vừa giáng
sinh là Bêlem theo lời tiên tri Mikêa. Nhưng Hêrôđê lại không chân thành
đón nhận mạc khải của Thiên Chúa để giới thiệu cho những người khách từ
phương xa đến mà ông chỉ giả vờ hỏi thăm các đạo sĩ để rồi tìm cách làm
hại hài nhi và cả các đạo sĩ.
Thuật
ngữ được dùng bởi Tin mừng theo Matthêu rất rõ nét: triều bái. Đây là
thái độ thờ lạy, tôn thờ, nhìn nhận quyền bính của vị vua vừa giáng
sinh. Ngay trong cách nói do thái, người ta còn thêm là phủ phục xuống
sát đất, mặt cúi xuống sát đất để diễn tả cử chỉ kính trọng trước Thiên
Chúa là Đấng Thánh. Ba nhà đạo sĩ đến nơi, họ đã dâng những lễ vật dành
cho một bậc quân vương, là vàng, nhủ hương và mộc dược. Hơn nữa, những
lễ vật này còn dành cho hài nhi để nhìn nhận thần tính của người. Tin
mừng Matthêu muốn diễn tả những lời loan báo của các tiên tri giờ đây đã
được ứng nghiệm nơi hài nhi Giêsu vừa mới giáng sinh. Tiên tri Isaia đã
loan báo thời đại đầy vinh quang của Israel khi muôn dân thiên hạ sẽ đổ
về Giêrusalem, họ tìm đến Giêrusalem vì ánh sáng phát xuất từ chính nơi
đây, bởi vì đó là lúc chính Chúa đang đứng dậy và vinh quang của Thiên
Chúa bừng sáng trên họ. Đoạn văn mô tả một khung cảnh vui tươi hạnh phúc
tràn ngập dành cho Giêrusalem, bởi vì các con trai con gái của họ sẽ từ
xa và từ khắp nơi sẽ trở về đoàn tụ và những kho tàng và của cải từ chư
dân đổ về Giêrusalem với những đàn lạc đà và những lễ vật như vàng và
nhủ hương. Thánh Matthêu hiểu những lời tiên tri của Isaia giờ đây đã
được thực hiện và ông mô tả việc ba nhà đạo sĩ thăm viếng với hình ảnh
ngôi sao lạ dẫn đường đến Giêrusalem và Bêlem để thờ lạy và dâng lễ vật
cho hài nhi Giêsu vừa mới giáng sinh.
Việc
Ba vua từ Đông phương theo dấu ngôi sao lạ tìm đến kính viếng vị vua
cứu thế mới giáng sinh đặt ra thái độ của con người trong việc đón tiếp
sự nhập thể của Thiên Chúa. Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm của tình
yêu, mà tình yêu là một hành động hoàn toàn tự do. Chỉ có tình yêu khi
có tự do thế nào thì tình yêu này chỉ trọn vẹn thực sự khi được đón
nhận. Nếu Thiên Chúa yêu thương con người mà không gặp được sự đón nhận
từ phía con người, thì tình yêu này của Thiên Chúa vẫn chưa có thể biểu
lộ trọn vẹn. Đức Mẹ và thánh Giuse đã biểu lộ thái độ đón nhận nhanh
nhẹn và đầy lòng tin. Thánh Giuse mau mắn đón nhận Đức Maria về nhà của
mình và đồng hành cùng Maria trong mọi hành trình để phục vụ cho hài nhi
Giêsu giáng sinh, Đức Maria thưa vâng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và
lên đường để sinh con ở Bêlem, đi Ai cập và trở về Nazarét. Ba Vua biểu
lộ thái độ đón nhận khi vượt đường dài từ quê hương để đến kính viếng và
dâng lễ vật thờ lạy hài nhi mới giáng sinh. Trong khi đó thái độ của
Hêrôđê cũng như những người ở Giêrusalem thì hoài nghi và bối rối vì
không muốn đón nhận một vị vua nào khác, họ sợ quyền lợi và địa vị của
mình bị lung lay vì một vị vua mới giáng sinh. Họ khép lòng mình trước
lời mời gọi tình yêu của Thiên Chúa và còn tìm cách giết chết hài nhi
Giêsu.
Đón
nhận biểu lộ mạc khải của tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi một dấn thân
cương quyết. Cũng giống như Ba Vua, đời sống hằng ngày của chúng ta biểu
lộ thái độ đón nhận trước mạc khải của Thiên Chúa giáng sinh. Khi đón
nhận mạc khải của Thiên Chúa, các ngài đã lần theo dấu sao lạ, đến nơi
Đấng cứu thế giáng sinh và thờ lạy. Mỗi người chúng ta cũng phải đi theo
dấu ánh sáng của Lời Chúa trong hành trình cuộc đời. Trong hành trình
này của cuộc đời, chúng ta cũng được mời gọi biết dùng khả năng hiểu
biết để tìm hiểu ánh sáng Lời Chúa và bước đi theo ánh sáng Lời Chúa,
giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn gian khổ của hành trình để gặp được
Chúa Cứu thế và thờ lạy người như Ba Vua. Thái độ dấn thân cương quyết
cũng đòi hỏi thái độ quên mình. Ba Vua phải vất vả lên đường theo dấu
sao lạ trong một hành trình dài và hiểm trở, chúng ta cũng sẽ phải học
thái độ quên mình trong cuộc hành trình theo Chúa, dưới ánh sáng của Lời
Chúa hướng dẫn, ngay cả đón nhận những thập giá, những hy sinh mà chúng
ta có thể gặp phải trong cuộc đời. Ba Vua đã dâng tiến những lễ vật là
vàng, nhủ hương và mộc dược. Những lễ vật của chúng ta sẽ là những cố
gắng chu toàn bổn phận trong cuộc đời, những hy sinh quên mình mà chúng
ta đã cố gắng và những việc làm của chúng ta khi cùng làm việc và cộng
tác với các anh chị em khác trong tình yêu thương chân thành. Thánh
Phaolô chia sẻ xác tín của người về ơn mạc khải mà người nhận được trong
tư cách là tông đồ của Chúa. Mạc khải này là mới mẻ bởi vì những thế hệ
trước đây người ta chưa được biết, đó là nhờ Tin mừng mà các dân ngoại
được trở nên đồng thừa tự, được thông phần vào lời hứa và trở nên cùng
một thân thể. Đây chính là thực tại mà chúng ta đang chia sẻ, và vì thế,
chúng ta càng nhận ra tầm mức quan trọng của ánh sáng Lời Chúa hướng
dẫn cuộc hành trình của chúng ta. Nhờ ánh sáng Lời Chúa, chúng ta vốn là
những người thuộc chư dân, nhưng được mạc khải của Lời Chúa hướng dẫn,
đang bước đi trên con đường dẫn đưa tới Thiên Chúa là nguồn sống và hạnh
phúc vô tận.
12. ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Thiên Phúc
Nhà
đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một
hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi
sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau,
năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng
hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường
và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông”
(Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được
báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia
thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh
con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự
sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả
thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy
được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì
sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds
24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ
bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một
vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong
hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho
các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng
có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao
thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư
thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi
sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình
bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên
đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và
khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương,
không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận,
xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau
này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều
người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong
Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên
ngoài” (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ
ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là
những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu
thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng
ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu
Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một
vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng
ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những
ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để
cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
13. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp
liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn
gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ
II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng
bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên
Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh
Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở
về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên
quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây,
các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ phương Đông tới thờ lạy Chúa
Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy
các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai
vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Bêlem và
các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo
tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê
băng hà mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).
Như
thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ
mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.
“Epiphaino”
có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Kitô, tự làm
cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ
cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để
nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự
ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, nơi
Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình,
xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc
các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng
nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: “Hãy
đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới,
vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang
bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa
đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân
sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh
của ngươi” (Is 66,1-3).
Ðây
là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng người
trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình
đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng
đến khắp địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh
sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp
trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng
của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm
cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi,
nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng
của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó
ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc
sống cá nhân mỗi người chúng ta.
Các
thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi
Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông
tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý
Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà
đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo.
Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của
Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân
loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc
giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con
người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ
vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu
nhiệm : “Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng”
(Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và
các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa
trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những
người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại) , và những
người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa
Kitô chứng tỏ sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và
bản chất của Giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Tước hiệu “Vua Do Thái“,
mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của
Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và trên bảng ghi trên thập giá.
Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?”
khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông thạo Thánh Kinh bối
rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong đời sống
cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.
Vì
thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm của
việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của
Đức Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.
Giáo
hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng
sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa
Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời
gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi
Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón
nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để
chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình,
tư tưởng và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của
chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh
sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta,
để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và
ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
14. Hành trình Ba Vua
AM Trần Bình An
Sao
chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt
tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao
chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng
nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều
sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao
chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt
thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn
có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối
bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm 1986, và sẽ xuất hiện trở
lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.
Theo
thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên những quỹ
đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ thứ
17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi
hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là
một thiên thể. Cứ khoảng 74 – 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần
Mặt trời và được nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ
trở lại năm 1758.
Đúng
hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng tiếc thay
ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác minh.
Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa
học của ông. (Wikipedia)
Chưa
có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà chiêm tinh
từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là các
nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy
thách đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện
tâm.
Tỉnh thức
Chẳng
lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy một ngôi
sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái
cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng
Messia nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa,
tiên quyết cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần
nhạy bén, sẵn sàng và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn
Thông minh, ơn Hiểu biết cho những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do
Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất
hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2)
“Một
hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần
con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 233)
Dấn thân
Các
vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà đích
thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự
vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống
đánh cược, can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên
Sai.
“Đã
ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi, hy vọng
gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh
hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị
đã gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)
Thử thách
Rồi
bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà đi? Thách
đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám dỗ,
lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức,
đói khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin,
Cậy, Mến, làm sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?
“Mất
để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo.
Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Tín thác
Dù
mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao núng, lung
lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò hỏi
khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê.
Gián tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng
Sống, để được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp
được Đấng Cứu Thế. Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)
“Thành
tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng
Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,” Phêrô
muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.” (Đường Hy Vọng, số 46)
Vâng phục
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.”
(Mt 2, 10) Hành động theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi
lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các
thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông thấy ngay ngôi sao dẫn đường,
thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục luôn là đức tính quan
trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2, 12) Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.
“Có
người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và
phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì
Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)
Lạy
Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa Thánh
Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu
Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng,
quyết tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan,
thử thách cam go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.
Lạy
Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân trong
thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám
dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin
dẫn dắt chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.
15. LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI MUÔN DÂN
Lm. Đan Vinh
I/ HỌC LỜI CHÚA
1/ TIN MỪNG: Mt 2,1-12
2/ Ý CHÍNH: NHƠ ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.
Khi
Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông
đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường
và sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối cùng các ông đã gặp
được Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu lộ đức tin bằng thái
độ sụp lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc
dược. Sau đó, các ông vâng lời thiên thần để theo con đường khác
trở về quê hương.
3/ CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +Vua Hê-rô-đê: Đây
là Hê-rô-đê Đại Vương, một con người đa nghi, độc ác và tham
quyền cố vị, băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Phân
biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị vua cha cai trị
xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng độc ác không kém vua cha. Chính ông
đã ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có lần đã xét xử Đức
Giê-su trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy nhà chiêm tinh: Cũng
gọi là đạo sĩ, đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây là những
nhà thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ
dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn
kể tên 3 vị ấy: Melchior da trắng ; Gaspar da vàng ; Balthaza da
đen để nói lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, màu
da hay tiếng nói, không chỉ riêng cho dân Do Thái.
- C 5-6: +Họ trả lời: “Tại Bê-lem.”..: Có
một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân
Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người
dựa vào Kinh Thánh biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế là
Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành Bê-lem: Là
một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem
10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x.
1 Sm 16,1 tt).
- C 7-8: +Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện: Vì
Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của Hài Nhi Cứu Thế và đã
ra lệnh cho quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng phụ
cận từ hai tuổi trở xuống.
- C 9-10: +Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ: Đây
là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn
lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại… do
Thiên Chúa ban, để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi
Cứu Thế.
- C 11-12: +Họ vào nhà: Chắc
chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp
tục cư ngụ tại cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện nghi tối
thiểu mà đã vào thị trấn Bê-lem thuê một căn nhà ở tạm.+ Sấp mình bái lạy Người: Các đạo sĩ biểu lộ đức tin Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. + Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến: Các
nhà chiêm tinh dâng lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và
mộc dược, là đặc sản của quê hương các ông. Vàng tượng trưng
đức tin, nhũ hương tượng trưng đức cậy và mộc dược tượng trưng
đức mến. Theo các giáo phụ thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ
hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc dược ám chỉ cuộc tử nạn và mai
táng bằng dầu thơm sau này. + Đi lối khác về xứ mình: Hê-rô-đê
không thể chống lại quyền năng, tình thương và ơn cứu độ của
Thiên Chúa. Những ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn cũng sẽ
thất bại và chuốc lấy hậu quả tai hại cho mình mà thôi.
4/
CÂU HỎI: 1- Phân biệt Hê-rô-đê Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê
An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với Đức Giê-su và về sự gian
ác quỷ quyệt? 2- Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có phải là
vua không? Vì sao người ta gọi là 3 vua và theo truyền thuyết
thì tên ba vị là gì và mang ý nghĩa như thế nào? 3- Các
thượng tế và kinh sư Do thái dựa vào đâu mà nói nơi sinh của
Đấng Cứu Thế là Bê-lem? So sanh giữa thái độ của các nhà thông
thái của dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại giáo trước
việc Đấng Cứu Thế ra đời như thế nào? 4- Hê-rô-đê hỏi về ngày
giờ ngôi sao lạ xuất hiện để làm gì? 5- Các đạo sĩ biều lộ
đức tin thế nào khi gặp Hài Nhi Cứu Thế? 6- Ý nghĩa tượng
trưng của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là gì? Các giáo phụ giải
thích ba lễ vật như thế nào?
II/ SỐNG LỜI CHÚA
1/ LỜI CHÚA: Có
mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: “Đức
Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì
sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái
lạy Người” (Mt 2,1-2).
2/ CÂU CHUYỆN: GIÁ TRỊ ÁNH SÁNG YẾU ỚT CỦA MỘT CÂY NẾN NHỎ:
Vào
một đêm mưa bão, ngọn đèn hải đăng đột nhiên bị mất điện tắt
ngúm. Người phụ trách vội vã đốt một cây nến nhỏ và đi theo
đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt cây đèn lồng lên. Bấy
giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng: “Ông đem
tôi đi đâu vậy?” Ông ta trả lời: “Ta mang nhà ngươi lên sân thượng
để ngươi chiếu ánh sáng giúp cho tàu bè từ ngoài khơi biết con
đường cập bến an toàn”. Cây nến lại nói: “Nhưng tôi chỉ là
một cây nến bé nhỏ thế này, mà tàu bè lại ở tít ngoài khơi
kia, thì hoa tiêu làm sao nhìn thấy ánh sáng yếu ớt của tôi
được?”. Người phụ trách trả lời: “Lúc này ta chỉ cần ngọn nến
nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác
thì đã có ta định liệu!”. Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người
phụ trách đã dùng cây nến châm lửa vào cây đèn lồng. Sau một
giây lát, ánh sáng từ cây đèn lồng đã rực lên chiếu tỏa ra
chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần
có thể sử dụng thay cho đèn pha điện. Ánh sáng của đèn lồng
có sức chiếu xa đến tận ngoài khơi, để nhờ nó tàu bè dễ định
hướng quay về cập bến an toàn.
3/ SUY NIỆM:
Lễ
Hiển Linh hôm nay cũng được gọi là lễ Ba Vua, kết thúc mùa Giáng Sinh.
Đây là một đại lễ được Giáo hội Công giáo Đông phương và các Giáo hội
Chính thống mừng rất long trọng, vì hôm nay là lễ Thiên Chúa vô cùng lớn
lao tỏ mình ra cho muôn dân qua một hài nhi bé nhỏ yếu đuối nghèo khó
là Chúa Giê-su. Tin mừng Mát-thêu thuật lại câu chuyện: có mấy nhà chiêm
tinh từ Phương Ðông quan sát bầu trời đã thấy một ngôi sao lạ xuất
hiện. Ngôi sao này là dấu chỉ cho biết Ðấng Thiên Sai của dân Do thái đã
ra đời. Đi theo ánh sao dẫn đường, và sau nhiều gian nan vất vã, cuối
cùng các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế Giê-su tại Be-lem. Các ngài đã
sụp lạy Hài Nhi và tiến dâng ba lễ vật quý giá mang theo từ quê hương
là vàng, nhũ hương và mộc dược. Rồi vâng lời sứ thần mộng báo “Đừng trở
lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2,12).
1/ Hành trình đức tin đi tìm kiếm Chúa xưa và nay:
Các
đạo sĩ cũng được gọi là ba vua, xưa đã đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế, cũng
chính là hình ảnh của nhân loại ngày nay thao thức đi tìm kiếm Chúa. Các
vị đạo sĩ mới chỉ biết Chúa cách mơ hồ nhờ sự nghiên cứu các sự thay
đổi tinh tú trên bầu trời rồi đối chiếu với Sách Thánh của dân Do thái,
các ngài đã nhận biết Đấng Cứu Thế đã ra đời, và đã khăn gói lên đường
đi tìm kiếm Chúa.
Đói
với chúng ta hôm nay: Mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng
ta là nhận biết tin thờ biết ơn Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất
muôn vật, và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su Ki-tô, để
nhận được ơn giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong Nước Trời do Chúa
Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay, hầu sau này sẽ được hưởng hạnh
phúc đời đời với Thiên Chúa trên Nước Trời vĩnh hằng, như lời Chúa
Giê-su đã cầu nguyên với Thiên Chúa: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
2/ Ánh sao dẫn đường đến với Chúa xưa và nay:
-
“Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một là Thiên Chúa, và
là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha. Chính Người đã tỏ cho chúng ta
biết” (Ga 1,18). Nhân loại chúng ta không thể nhìn thấy Thiên Chúa bằng
con mắt thể xác, nhưng chỉ có thể thấy Ngài bằng con mắt đức tin. Tuy
nhiên sự hiểu biết Chúa bằng đức tin không hoàn toàn sáng tỏ và cần tiếp
tục được đào sâu bằng các phương thế Chúa ban như: Các buổi học sống
Lời Chúa trong cộng đoàn, các buổi tĩnh huấn và các giò học hỏi giáo lý
thánh kinh, các thánh lễ hằng ngày hằng tuần, các công tác bác ái thăm
viếng chia sẻ phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật bất hạnh là hiện
thân của Chúa Giê-su…
-
Tuy đức tin của chúng ta thật bé nhỏ, giống như ánh sáng yếu ớt của
một cây nến nhỏ giữa biển đời bao la giông tố, nhưng Chúa chỉ cần
chúng ta làm hết khả năng của mình, rồi phó thác thành quả tương
lai cho Thiên Chúa quan phòng định liệu. Chúng ta cần ý thức
rằng: Trong mọi việc, đặc biệt những việc có liên quan đến đức
tin như: giới thiệu về Chúa cho anh em lương dân, giúp một tội nhân
đang lạc xa Chúa quay trở về với Chúa… đều vượt quá khả năng giới
hạn của chúng ta như thánh Phao-lô tông đồ đã dạy: “Tôi trồng, anh
A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta cần thực hành theo lời khuyên này:
“Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn cứ ngồi đó mà nguyền rủa
bóng tối!”.
3/ Cần làm gì để chu toàn sứ mệnh truyền giáo hôm nay ?:
-
Trước hết phải tránh thái độ gian ác của vua Hê-rô-đê: Vua Hê-rô-đê đã
tim Chúa để giết hại Người, do ông ta sợ Đấng Cứu Thế đến sẽ giành mất
ngai vàng. Ông đã bảo vệ địa vị quyền hành bằng mọi giá, kể cả giết tất
cả các trẻ em vô tội tại Be-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống.
Thái độ thù nghich với Chúa đã biến Hê-rô-đê thành một kẻ tàn ác gian
manh quỷ quyệt: bề ngoài ông giả bộ thiện chí muốn thăm viếng để bái lạy
Hài Nhi Cứu Thế, nhưng thâm tâm lại âm mưu tìm cách giết hại Người.
Chúng ta cần noi gương các đạo sĩ quyết tâm đi tìm Chúa đê tôn thờ và
dâng lên Người lễ vật quý giá nhất là lòng thành, kể cả mạng sống của
mình.
-
Phải noi gương bền chí của các vị đạo sĩ: Các ngài đã luôn thao thức đi
tìm Chúa, kiên trì vượt qua các trở ngại dọc đường. Khi đến thủ đô
Giê-ru-sa-lem thì ngôi sao lạ biến mất. Các ngài đã không chán nản bỏ
cuộc quay về, nhưng đã đi dò hỏi tin tức của Hài Nhi Cứu Thế ngay trong
đền vua Hê-rô-đê, và tiếp tục theo ánh sao dẫn đường để tới Bê-lem. Khi
gặp được Hài nhi Cứu Thế, các ngài đã sấp mình thờ lạy rồi cung kính
dâng lên Người những lễ vật quý giá mang từ quê hương là vàng, nhũ hương
và mộc dược. Rồi nghe theo lời báo mộng, các ngài đã theo con đường mới
trở về quê hương mình.
-
Phải chiếu sáng đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mến: Ngày nay
chúng ta cần biết quan tâm tìm hiểu “các dấu chỉ của thời đại”, để từ
đó góp phần làm cho Nước Chúa mau trị đến bằng việc cải tạo môi trường
mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn.
Dưới ánh sáng Lời Chúa và nhờ ơn Chúa ban qua việc năng tham dự các buổi
học sống Lời Chúa, năng dự thánh lễ và rước lễ sốt sằng, chúng ta hy
vọng sẽ chiếu ánh sáng tin yêu bằng lời nói và lối ứng xử vị tha, luôn
hy sinh quên mình và yêu thương phục vụ tha nhân, dẫn đường cho tha nhân
nhận biết Chúa như Chúa Giê-su đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu
giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm,
mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16), và lời thánh
Phao-lô: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như
thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và
sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian
tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao
trên vòm trời” (Pl 2,14-15).
4/
THẢO LUẬN: Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu thành Phi-líp-phê
như sau: “Giữa một thế hệ gian tà, anh em phải chiếu sáng như
những vì sao trên vòm trời.”.. (Pl 2,14-15). Trong Mùa Giáng Sinh
này, mỗi tín hữu chúng ta cũng trở thành một ngôi sao lạ dẫn
đường. Vậy chúng ta cần phải tỏa sáng bằng những việc cụ thể
nào để giúp lương dân nhận biết tôn thờ và yêu mến Chúa?
5/ LỜI CẦU:
- Lạy
Chúa Giê-su, cuộc đời chúng con nhiều khi cũng gặp phải hoàn
cảnh bế tắc giống như các nhà chiêm tinh xưa đã gặp khi ngôi sao
đang dẫn đường đột nhiên biến mất: Chúng con không biết phải
giải quyết cách nào cho ổn, không rõ phải đi theo đường nào như
ý Chúa muốn? Trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng
con biết noi gương các đạo sĩ xưa là không nản chí sờn lòng,
nhưng luôn kiên trì tìm ý Chúa qua các vị chủ chăn trong Hội
Thánh. Chúng con tin rằng: Chúa sẽ mau soi sáng, giúp chúng con
nhận biết phải làm gì theo thánh ý Chúa và đón nhận được ơn
cứu độ của Chúa ban cho.
-
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con ý thức trách nhiệm phải luôn chiếu
ánh sáng đức tin bằng các việc bác ái yêu thương thể hiện qua thái
độ quên mình phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người bần
cùng đau khổ, như lời thánh Phao-lô dạy: “Anh em phải chiếu sáng
như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Hoặc như lời Chúa
phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
16. TÌM CHÚA VÀ GẶP CHÚA
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trước
đây, theo thói quen, chúng ta thường gọi lễ Chúa Hiển Linh là lễ Ba
Vua. Thực ra, các nhân vật được thánh Matthew kể trong Tin Mừng hôm nay
không phải là các vua. Họ là những đạo sĩ, những nhà chiêm tinh của Đông
Phương, tìm đến Giêrusalem để triều yết vị vua mới sinh. Nếu như trong
đêm giáng sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho những người bé mọn là các
mục đồng dân Israel, thì với biến cố viếng thăm của các đạo sĩ, Chúa
Giêsu đã tỏ mình ra cho dân ngoại.
Câu
chuyện được thánh Matthew kể lại là một hành trình dài tìm kiếm đức tin
của các đạo sĩ, và đó cũng là hành trình của mỗi người chúng ta khi tìm
đến với Đức Giêsu.
Để
có thể tìm kiếm và gặp được Hài nhi Giêsu cần phải có một quyết tâm lên
đường giống như các đạo sĩ. Họ phải bỏ lại đàng sau tất cả để bước vào
một hành trình tìm kiếm. Hành trình này không hề dễ dàng thoải mái, mà
phải băng qua thử thách và hy sinh. Có những lúc họ hăng say phấn khởi
vì có ánh sao dẫn đường, song cũng có những lúc ánh sao như bị che khuất
và các đạo sĩ phải bước đi trong tăm tối. Những lúc như thế, họ đã phải
dò hỏi tìm đường, kể cả phải vào cung điện của Herode để hỏi thăm: Đức
Vua dân do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi(…) đến để bái lạy Người.
Khi
được chỉ cho biết: Vua người Do Thái sinh ra tại Belem, đất Giuda, các
đạo sĩ (…) tìm đến nơi, và gặp được Hài Nhi Giêsu, và họ đã sấp mình thờ
lạy Người. Thái độ sấp mình thờ lạy là thái độ cung kính tôn thờ và tin
nhận Hài Nhi bé nhỏ kia chính là Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã dâng cho
người tất cả những gì là quý giá nhất, là tất cả sản nghiệp mà họ mang
theo. Đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, là những của lễ dành cho các
bậc quân vương.
Sau
khi đã gặp Hài Nhi, các đạo sĩ đã được báo là phải đi đường khác để trở
về xứ sở mình. Điều đó có nghĩa là khi đã được gặp gỡ Thiên Chúa, con
người phải có một quyết định thay đổi đời sống. Họ không thể sống theo
con đường cũ, mà phải đi một con đường khác, con đường của niềm tin, của
ánh sáng ; phải thay đổi từ trong suy nghĩ đến hành động, tức là thay
đổi hoàn toàn cả con người cho phù hợp với những gì mà Đức Giêsu đòi
hỏi.
Ngược
lại với các đạo sĩ là thái độ của vua Herode và các Thượng tế. Khi nghe
các đạo sĩ hỏi: Vua người Do Thái mới sinh ở đâu? Thì Herode bối rối lo
sợ và cả Giêrusalem xôn xao. Các thượng tế thì biết rất rõ bởi họ rất
thuộc Kinh Thánh, họ chỉ cho các đạo sĩ biết là tại Belem, đất Giuda,
nhưng chính họ lại không lên đường tìm kiếm.Vua Herode không những không
tìm kiếm Hài Nhi, mà còn rắp tâm loại trừ Người chỉ vì sợ Hài Nhi sẽ
tranh giành quyền lực ngai vàng của ông, dù vẻ bề ngoài ông hết sức tử
tế :Herode bí mật mời các đạo sĩ đến và nói: Các khanh hãy đi và dò hỏi
tường tận về Hài Nhi và khi tìm thấy thì báo lại cho tôi để tôi cùng đến
bái lạy Người.
Thiên
Chúa tỏ mình ra cho con người, song con người cũng phải nỗ lực để tìm
kiếm Ngài, khám phá không ngừng về đức tin vào Ngài. Tin Chúa, theo Chúa
không phải là bằng lòng với một chút hiểu biết của mình mà cần phải
liên tục khám phá và đào sâu về Tin Mừng, về Đức Kitô và giáo lý của
Ngài. Hơn thế nữa, tin Chúa không dừng ở mức độ hiểu biết mà còn phải
liên tục làm mới mối tương quan tình yêu của mình với Thiên Chúa, sống
gắn bó thân tình với Chúa.
Giống
như hành trình của các đạo sĩ, hành trình theo Chúa đòi chúng ta phải
bỏ con đường cũ, đi theo một con đường khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh,
bỏ lại đàng sau những lôi kéo của xã hội, của tự do buông thả, chấp
nhận lội ngược dòng, sống khác với người đời cho dù bị thế gian cho là
dại khờ. Người đời sống gian dối trộm cắp, nhưng là người Công giáo, tôi
sống ngay thẳng; người đời có thể làm điều gian ác, bất công nhưng tôi
vẫn sống thật thà dù tôi bị thiệt thòi; người đời thù oán giận hờn,
nhưng tôi sống tha thứ và yêu thương.
Giống
như các đạo sĩ, chúng ta cũng được mời gọi dâng cho Chúa không phải là
vàng, mộc dược, nhũ hương, mà là dâng cho Chúa thời giờ, sức khỏe và khả
năng qua việc siêng năng đến thờ phượng Chúa, dâng thánh lễ mỗi ngày,
cũng như qua việc phục vụ anh em và các công tác tông đồ trong giáo xứ.
Mỗi ngày, hãy dâng cho Chúa những công việc, những lo toan và dâng cả
gia đình của mình. Chúa sẽ nhận và nâng đỡ những khó khăn, vất vả của
chúng ta.
Chúng
ta sẽ giống Herôđê khi chúng ta dửng dưng trước tin vui Con Thiên Chúa
làm người, hoặc ta lo sợ, từ chối Ngài vì sợ Ngài can thiệp vào cuộc đời
chúng ta, sợ Ngài làm chủ cuộc đời chúng ta. Nhiều người đã cố tình
đóng cửa tâm hồn trước lời mời gọi của Ngài. Ngày hôm nay, còn có những
Herôđê trong các gia đình, là những cha mẹ đã ra tay giết chính những
đứa con trong dạ mình, vì sợ sự có mặt của chúng sẽ làm ảnh hưởng đến
kinh tế gia đình, sợ chúng ăn hết phần ăn của mình, sợ chúng làm ảnh
hưởng đến công việc hoặc sự nghiệp của mình.
Xin
Chúa giúp chúng ta biết sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Giáng Thế của Con
Thiên Chúa, biết để cho Ngài biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt hơn.
Đồng thời, nhờ đời sống gương sáng của mỗi Kitô hữu, chúng ta sẽ trở nên
như những ánh sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến với Chúa. Amen.
Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
Theo
chú thích trong cuốn Christian Community Bible của hai tác giả Bernard
Hurault và Louis Hurault thì ‘vào thời kỳ các sách Tin Mừng được biên
soạn, văn chương Do Thái thích đưa ra những truyện tường thuật lại thời
thơ ấu của các người hùng trong Kinh Thánh: truyện ông Abraham, truyện
ông Môsê vừa được viết xong. Tương truyền rằng một ngôi sao đã báo cho
vua Pharaô biết một vị cứu tinh của người Hípri sắp chào đời, do đó nhà
vua quyết định giết tất cả các bé trai, nhưng Môsê đã được cứu thoát.
Trong giới Kitô hữu cũng vậy, có những chuyện dân gian thuật lại các mẩu
chuyện về thời thơ ấu của Chúa Giêsu mà Tin Mừng không hề ghi chép.
Chính trong bầu khí này mà tác giả Mátthêu mượn lại một số truyền
thuyết. Đây là cơ hội cho ông nói rõ, như trong một lời tựa của sách Tin
Mừng, sứ mạng của Chúa Giêsu là thế nào’ (Xem ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’ Tân Ước, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006, trang 30).
Câu chuyện ‘Các nhà chiêm tinh đến bái lạy đức Giêsu Hài Nhi’,
mà ta quen gọi là biến cố hiển linh hay xưa hơn nữa là sự kiện ‘Ba Vua
tới thờ lạy’, được Mátthêu tường thuật ngay sau đoạn Giuse được báo mộng
về việc Maria thụ thai, ‘sẽ sinh một con trai’ và ông sẽ ‘đặt tên cho con trẻ là Yêsua’
(Mt 1:18-25). Như thế khi thuật lại truyền thuyết này, tác giả hầu như
muốn nêu lên ý tưởng Hài Nhi Giêsu chính là một Môsê mới: nhân vật chính
mình đã từng là ‘người được cứu thoát’ của Thiên Chúa, và sau
này sẽ trở thành cứu tinh của cả một dân tộc. ‘Được cứu’ như Môsê, Hài
Nhi Giêsu thể hiện nơi mình ước vọng của toàn thể nhân loại, nhưng đồng
thời Người cũng là Thiên Chúa Cứu Độ, đúng với cái tên Yêsua thiên sứ đã
báo trước. Nhân tính và Thiên tính gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn nơi Trẻ
Thơ Bê-lem là thế; nhân tính Người hiện thân cho nhân loại ‘được cứu
thoát’, trong khi thiên tính lại biểu lộ ‘Thiên Chúa tích cực cứu độ’.
Ngôi sao định mệnh của Người quả là độc đáo, và đã được nhiều nhà chiêm
tinh nhận ra, ‘chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương đông’: ngôi sao chỉ rõ giải thoát và được cứu thoát đã gặp gỡ nhau, và cả hai đều được thể hiện cách trọn vẹn. Khi
điều đó được thực hiện tức là nhân loại đã có một số phận mới; lịch sử
nhân loại đã hoàn toàn bị đảo lộn. Các nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) cất
công lên đường tìm tới bái lạy Hài Nhi chính vì điều này. Đối với họ Hài
Nhi phải là một nhà vua vĩ đại, một vị lãnh tụ mới… như các ngôn sứ đã
từng nói đến về đấng Mêsia: “vì ngươi là nơi, hỡi Bêlem, vị lãnh tụ chăm dắt Israel dân ta sẽ ra đời”.
Như
vậy, sự kiện hiển linh (các chiêm tinh gia theo dấu ngôi sao lạ đến bái
lạy Hài Nhi Giêsu) đâu phải là hành vi chỉ hiển thị thiên tính cứu độ,
mà cả cái nhân tính được cứu thoát cũng được hiển thị nữa. Chẳng vậy mà
ngay sau đó tác giả Mátthêu đã tường thuật tỉ mỉ việc các anh hài bị
giết hại còn Hài Nhi thì trốn thoát được qua Ai-cập, rồi ở đó an toàn
cho tới khi được gọi về, “Ta đã gọi con ta ra khỏi Ai-cập”.
Tương tự như Môsê không chỉ được sách Xuất Hành giới thiệu như vị cứu
tinh oai hùng đưa dân Hípri vượt qua Biển Đỏ trở về Đất Hứa, mà còn cho
thấy ngài là đứa bé ‘được vớt lên khỏi nước’… trốn chạy an toàn
qua Mađian, rồi được sai trở lại Ai-cập với sứ mệnh giải thoát (Xh
2-3). Giống như các người chăn chiên ngoài đồng, khi các nhà chiêm tinh “vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người”, họ không chỉ bái lạy một Thiên Chúa giáng trần, mà vì ‘thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng’
vì biết rằng ơn cứu độ của mình và của toàn nhân loại đang được thực
hiện cách trọn vẹn và dứt khoát, trong hình hài của Hài Nhi nhỏ bé.
Hiển
linh sẽ không có ý nghĩa gì và chẳng làm ai mừng rỡ nếu chỉ là một sự
biểu dương uy quyền, cho dầu đó là quyền uy của Thiên Chúa. Hiển linh
của Hài Nhi Bêlem làm cho hết mọi người mừng rỡ, vì quả thật ‘các
nhà chiêm tinh là những tư tế được kính nể của đạo Darathusơtra, lại còn
là những nhà thiên văn học và thầy bói toán. Ở đây các ông đại diện cho
những tôn giáo không biết đến Kinh Thánh’ (xem tác phẩm trích dẫn
trên, trang 31). Hài Nhi Yêsu-a hiển linh một Thiên Chúa Cứu Độ đồng
thời một loài người được trọn vẹn cứu thoát (trong đó có cả chúng ta –
các Kitô hữu, nhưng đồng thời cũng bao gồm luôn cả các kẻ tội lỗi, những
người vô thần nữa?) Hiển Linh do đó phải khơi nguồn một niềm vui mừng
và hy vọng lớn lao cho toàn thể nhân loại. Có lẽ đó là lý do Giáo Hội
Chính Thống Đông Phương luôn dành cho ngày lễ này một sự trang trọng lớn
lao trong việc cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh!
Lạy
Hài Nhi với thân mẫu là Maria, xin cho con được sấp mình cung kính bái
lạy, không phải vì sợ sệt hay kính nể, nhưng vì mừng rỡ và sướng vui.
Xin cho con nhận ra trong ngôi sao của Hài Nhi, số mệnh của chính mình
đã được ấn định: vì cho dầu con có là ‘ngôi sao xấu số’ tới đâu, thì nó
cũng đã là ‘ngôi sao được cứu rỗi’ nhờ ‘Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta’. Xin cũng hiển linh điều này cho hết thảy mọi người,
để niềm vui Giáng Sinh được bùng nổ trên khắp cõi trần gian. Amem.
18. Lý do Chúa làm người
Jos Tạ Duy Tuyền
Có
anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì đến Chúa. Chàng cũng làm
ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng đạo. Nàng cố gắng
nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời xỏ xiên
của người chồng cứng lòng.
Đêm
vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời mình đi dự lễ đêm, chàng càu
nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành
phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi hài!”
Vợ
con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa sổ, chàng thấy những
mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra khoảnh sân,
chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường
xuôi nam, bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất
hướng, bay lòng vòng quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín
khuất để tá túc. Chàng bỗng động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi
được coi là ấm cúng và yên ổn cho chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan.
Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà, đến đầu dãy trại, mở toang cánh cửa
lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc. Thế nhưng, dường như mắt
chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại đã mở toang hoác,
càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay nhảy vô
định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm
cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và
tản ra xa hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại
càng đi sang hướng khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo
chàng, bởi vì chàng đâu phải đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi,
chàng bước vào trại, ôm lấy một con ngỗng đang nuôi trong trại, mang ra
nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời. Con ngỗng của chàng đã quen
thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào cổng trại để trốn giá
lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo nó, đi dần vào
bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như
chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời mình đã càu nhàu với vợ:
“Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống
đời khổ sở như thế!”. Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là chuyện khôi
hài nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Giáng
Sinh.
Ngoài
trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng. Trong tâm tư chàng, cơn bão
hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi vào tâm hồn chàng.
Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ thuở tấm
bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám ơn
Đức Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết
vì con…”.
Thiên
Chúa làm người để cho con người làm con Thiên Chúa. Chúa cúi xuống thân
phận loài người để dẫn loài người về bến bờ bình yên là hạnh phúc Nước
Trời. Đàn ngỗng cần lắm một con ngỗng quen thuộc đường đi lối về mới có
thể dẫn cả đàn thoát giông bão hiểm nguy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời
xuống trần, thế nên, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn con người về với trời
cao. Cũng như chiếc phi cơ phải hạ cánh thì mới đưa hành khách bay bổng
lên trời. Không có sự xuống thế của Ngôi Hai Thiên Chúa thì không có
cuộc về trời của con người.
Nhưng
đâu là dấu chỉ về Con Thiên Chúa làm người? Làm sao con người có thể
nhận ra đâu là Thiên Chúa qua thân phận con người? Năm xưa, các mục đồng
đã nhờ thiên thần loan báo mà biết Con Thiên Chúa hạ sinh. Ba vua từ
phương đông đã nhờ ánh sao dẫn đường để tới bái kiến Vua Trời giáng
sinh. Chúa Giêsu đã nhờ Gioan để dọn đường và giới thiệu khi người đến.
Thiên
Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đang cần chúng ta là những
mục đồng loan tin Chúa cứu thế hạ sinh. Ngài đang cần niềm tin của chúng
ta phải tỏa sáng như ánh sao dẫn lối tha nhân đến với Chúa. Ước mong
niềm vui giáng sinh được lan tỏa đến mọi người và mọi nhà nhờ vào ánh
sáng niềm tin của chúng ta. Một niềm tin được tỏa sáng qua đời sống
thanh thoát khỏi những đam mê tội lỗi, những trào lưu tục hóa đang thống
trị thế giới. Một niềm tin trung kiên để từ khước những bổng lộc trần
gian để sống trung tín với giới luật của Chúa. Một niềm tin sắt son để
luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống.
Chính nhờ đức tin ấy, lối sống đạo ấy mà chúng ta trở thành ánh sao dẫn lối cho muôn dân tìm gặp và tôn thờ Chúa. Amen.
19. Hãy tỏa sáng
Inhaxiô Trần Ngà
Hôm
ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một
hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp
trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm
trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị
linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que
diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh
sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều
người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau
đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa
sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội
trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những
người hiện diện.
Bấy
giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một
việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa
trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn
đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt
truyện trên internet).
Hôm
xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà
chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay,
mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn
lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời
Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang
lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước
hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp
trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có
lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung
quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn
đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần
những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những
giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa
ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên
các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy
thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói
hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương
mai.
Kế
đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng
Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ
làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời
sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin
giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít
nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt
của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực
thì đen, gần đèn ắt phải sáng.”
20. NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ NHẤT
Trần Duy Nhiên
Tôi
tên là Gaspar, một trong ba người đạo sĩ đã đến dâng của lễ bên máng cỏ
ở Bêlem. Hai người bạn của tôi là Melchior và Balthazar.
Từ
lâu rồi, tôi mãi ngắm nền trời sao, và hôm ấy, ngôi sao tôi chờ đợi
xuất hiện. Các bạn từng có hình ảnh về sao lạ ở Bêlem, nên các bạn hình
dung đó là một ngôi sao khác thường, với một cái đuôi thật dài chỉa
thẳng về hang đá. Một ngôi sao mà không ai có thể nhận lầm được.
Xin
thưa với các bạn, nếu các bạn nghĩ như thế thì các bạn lầm rồi đấy.
Ngôi sao ấy không khác với các ngôi sao bình thường đâu. Tôi đã chờ đợi
nó từ bao nhiêu năm trường mà khi xuất hiện, tôi vẫn còn do dự. Tôi đã
chỉ cho bao nhiêu người xung quanh, cho bà con họ hàng, cho thân bằng
quyến thuộc. Họ chỉ nhìn thoáng rồi thôi. Họ bảo rằng giữa hằng hà sa số
tinh tú trên trời thì ngôi sao ấy cũng chẳng có gì đặc biệt. Không ai
chịu lên đường với tôi, rốt cuộc tôi phải đi một mình. Không ai muốn đặt
niềm tin vào một vì sao, mà xét cho cùng, có thể chỉ là một ngôi sao
như trăm ngàn ngôi sao khác. Nhưng riêng tôi thì tôi phải ra đi, bởi vì
tôi không thể đặt ngôi sao ấy đồng hàng với những ngôi sao bình thường
được.
Khi
gặp được Melchior và Balthazar, niềm phấn khởi của chúng tôi có gia
tăng. Nhưng dù sao cũng chỉ là ba người thức giấc bước đi trong đêm tối
cố theo một ngôi sao, trong khi mọi người khác đang yên hàn trong giấc
ngủ. Càng đi chúng tôi càng mệt mỏi. Khi thể chất mệt nhoài, thì tinh
thần cũng sa sút, và những gì chúng tôi tin tưởng lúc khởi hành cũng dần
dần nhạt phai. Nhất là khi trên nền trời hiện ra nhiều vì sao mới, sáng
sủa hơn, đẹp đẽ hơn, gần gũi hơn.
Thế
nhưng chúng tôi cũng bám vào ngôi sao ban đầu, bám vào một cách cố
chấp, vì chúng tôi đã tự hứa sẽ trung thành với ngôi sao đã thúc dục
chúng tôi lên đường.
Rồi
chuyện bi đát đã xảy ra: Ngôi sao của chúng tôi đã biến mất. Bây giờ
chúng tôi mới thực sự cô đơn. Ba chúng tôi nhìn nhau không dám nói một
lời. Chúng tôi không tìm ra lời nào để khích lệ nhau. Đức tin thúc dục
chúng tôi đi tới, lý trí bảo rằng chúng tôi phải quay về. Và chúng tôi
im lặng đi bên nhau, cô đơn giữa những người cùng chí hướng. Chúng tôi
bước đi trong đêm tối, đêm tối trên trời, và đêm tối trong lòng. Với tâm
trạng đó, chúng tôi tiến về Giêrusalem.
Đến
Giêrusalem, chúng tôi cảm thấy mình như rồ dại. Chúng tôi chờ đợi một
Giêrusalem tưng bừng mở hội đón chào đấng Messia, nhưng trái lại chúng
tôi bắt gặp một Giêrusalem hờ hững. Giêrusalem là nơi phát xuất Kinh
thánh, là nơi của Lời hứa, vậy mà Giêrusalem chẳng hay biết gì cả. Điều
này chứng tỏ rằng chúng tôi đã sai lầm, chúng tôi đã bị một ngôi sao vớ
vẩn nào đó đánh lừa. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn tiếp tục. Chúng tôi sẽ
đi ngược lại với mọi chứng cớ, vì chúng tôi là những người đã bị một vị
sao trên trời cuốn hút; chúng tôi không thể lùi lại. Chúng tôi sẽ là
những người khôn ngoan nhất hoặc sẽ là những người rồ dại nhất.
Chúng
tôi phải bước tới. Đến gặp Hêrôđê. À! thì ra cũng còn một người thức
tỉnh. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi, ông cho gọi các luật sĩ đến chỉ
đường cho chúng tôi về Bêlem; ông mời chúng tôi trở lại báo tin cho ông
biết để đi thờ lạy…
Mãi
sau này chúng tôi mới biết được rằng vì quyền lợi mà ông thức tỉnh chứ
không phải vì niềm tin. Thì ra người ta dễ dàng thức tỉnh vì quyền lợi
hơn là vì niềm tin. Bởi thế mà Hài Nhi đã bị kết án tử hình trước khi
chúng tôi đến thờ lạy.
Chúng
tôi tiếp tục cuộc hành trình về Bêlem như những người say, dân chúng
Giêrusalem đang tựa cửa đứng nhìn. Chúng tôi đã bao nhiêu đêm ngày lặn
lội đến triều bái vị vua mới sinh. Còn họ, họ không buồn ngưng cuộc sống
bình thường lấy một ngày để đến Bêlem kiểm chứng. Phải chăng họ đã chờ
đợi quá lâu rồi nên bây giờ không còn tha thiết gì nữa? Phải chăng niềm
tin của chúng tôi chỉ là ảo tưởng?
Lúc
đến Giêrusalem, chúng tôi đã đi ngược lại quan niệm của những người
bàng quan. Giờ này về Bêlem, chúng tôi đi ngược lại với quan niệm của
những người được tuyển chọn. Dưới mắt mọi người, chúng tôi là những kẻ
bất bình thường, nếu không phải là những người khờ khạo.
Và
này, ngôi sao lại xuất hiện, chúng tôi nhìn nhau mỉm cười mà nước mắt
tuôn trào. Không! Ngôi sao xuất hiện không phải để chỉ đường, vì chúng
tôi đã biết đường về Bêlem. Ngôi sao xuất hiện không phải để củng cố
niềm tin, vì chúng tôi vẫn tin tưởng, tin tưởng một cách ngoan cố, tin
tưởng ngay trong lúc ngỡ rằng mình nghi ngờ. Ngôi sao xuất hiện như một
bằng chứng tình yêu đáp lại tình yêu.
Chúng
tôi đã đến Bêlem dâng lên hài Nhi những của lễ vật chất kèm với tấm
lòng thành của mình. Chúng tôi đã tìm được kho tàng quí giá nhất. Đối
diện với hài Nhi, chúng tôi hiểu rằng, khi ra đi, chúng tôi đã không có
một của lễ nào xứng đáng để dâng lên Ngài. Chúng tôi quả đã mang theo
vàng, nhũ hương và mộc dược. Nhưng những của lễ đó hoàn toàn không có
giá trị nếu không kèm theo những đau khổ, những cực nhọc, những lo âu,
những thử thách, những đêm tối trong lòng.
Nhờ
vậy mà chúng tôi đuợc thấy ánh sáng trong đêm Bêlem này. Bây giờ chúng
tôi có thể ra về, chúng tôi trở về rón rén, im lặng vì chúng tôi đã tìm
được kho tàng mà những vị vua chúa không thèm, một kho tàng mà họ ghét
bỏ và muốn tiêu diệt.
Vâng,
Hêrôđê đã ra lệnh cho binh sĩ chỉnh tề gươm giáo. Chúng tôi không trở
lại với Hêrôđê, chúng tôi đã thất hứa. Các bạn không trách chúng tôi
chứ? Chúng tôi đành thất hứa với một ông vua, chứ làm sao chúng tôi có
thể phản bội hài Nhi.
Tôi
tin rằng các bạn thông cảm với chúng tôi, bởi vì hành trình của chúng
tôi cũng chính là hành trình của các bạn ngày hôm nay. Hành trình của
những người hướng về một ngôi sao có khi đã tắt, và âm thầm tiến về
Bêlem.
Trần Duy Nhiên
Có
lẽ tôi cũng cần phải lên tiếng, bởi vì nếu hôm nay tôi im lặng, tôi sẽ
là một tên vô ơn bạc nghĩa nhất trên đời. Tôi là một người đã đến bên
hài nhi với hai bàn tay trắng và đã nhận tất cả nơi Giêsu. Tôi là một
trong muôn ngàn người đến với Giêsu, nhận lấy thật nhiều rồi ra đi lặng
lẽ. Tôi là người đạo sĩ thứ tư, người đạo sĩ đến sau cùng và Phúc âm
không đề cập đến. Cố nhiên tôi cũng đã chuẩn bị một lễ vật dâng lên hài
Nhi, nhưng vì lơ đễnh tôi đã để rơi rớt.
Ngày
tôi phát hiện vì sao lạ, tôi đã mở kho tàng mình và lấy ra ba viên ngọc
quí nhất để làm của lễ tiến dâng. Tôi đã chậm trễ dọc đường nên không
tới kịp như ba vị trước.
Trên
đường đi, tôi đã gặp một cụ già hấp hối, đói rét và bệnh tật nhưng
không có ai chăm sóc. Tôi đã yếu lòng nên lấy ra một viên ngọc để nhờ
người chăm sóc cụ già ấy. Đó là lý do đầu tiên làm tôi chậm bước. Ngày
hôm sau, tôi lên đường một mình. Khi qua một khu rừng thưa, tôi nghe có
tiếng thét thất thanh, tôi đã dừng lạc đà rồi tò mò chạy đến. Tôi thấy
có mấy tên côn đồ muốn hành hung một phụ nữ. Tôi không đủ sức đánh
chúng, nên đành phải rút viên ngọc thứ hai mà mua lấy tự do cho người
bất hạnh kia. Thế là tôi chỉ còn một viên ngọc cuối cùng. Tôi quyết sẽ
không phung phí vì bất cứ một lý do gì nữa. Nhưng rồi tôi lại không giữ
được lời tôi nguyện.
Khi
đến gần Bêlem, bỗng thấy lửa rực trời. Những người lính của Hêrôđê đang
giết những trẻ em. Gần một ngôi nhà bốc lửa, một tên lính nắm xốc ngược
một hài nhi định lấy gươm mà đâm thâu, và dưới chân là người mẹ quì
khóc gào không ra tiếng… Tôi bỗng quên lời hứa với chính mình và đem
viên ngọc thứ ba trao cho tên lính để nó trả đứa bé lại cho người mẹ
khốn cùng. Thế là hết, tôi chẳng còn gì nữa. Tôi đã đi bao nhiêu đêm
ngày đến đây mong triều bái vị vua mới sinh, thế mà tôi lại đến với hai
bàn tay trắng. Dù sao thì tôi cũng phải đến để xin lỗi Ngài.
Tôi
cúi mặt bước vào hang đá. Tôi nghẹn ngào khi thấy vàng ròng, nhũ hương
và mộc dược của những người đi trước tôi. Tôi không còn lòng dạ nào nói
lên lời xin lỗi. Tôi quì xuống cạnh máng cỏ, úp mặt vào lòng bàn tay,
mặc cho dòng nuớc mắt tuôn trào.
Nhưng
kìa, sao nước mắt tôi hôm nay ấm thế?… Không, không phải là nước mắt,
nhưng là đôi tay ấm áp của Chúa Hài Nhi đang nắm lấy tay tôi. Chúa Hài
Nhi không lộ vẻ trách móc, nhưng nhìn tôi âu yếm, trên môi nở một nụ
cười. Và tôi cảm thấy tràn đầy bình an. Tôi chợt hiểu rằng, tôi là người
duy nhất lãnh nhận tất cả nơi Hài Nhi, bởi vì tôi chẳng có gì để tiến
dâng cả. Tôi hiểu rằng nếu tôi đến bên hài nhi với ngọc ngà châu báu thì
có thể tôi đã trở về không, bởi vì lòng tôi đầy ắp tự mãn nên không còn
chỗ để chứa chất bình an của Ngài. Nhưng tôi đã đến bên hài nhi với đôi
bàn tay trắng, và cõi lòng trống không, vì thế tôi đã nhận được bình an
tràn đầy.
Vì
thế mà hôm nay tôi bắt buộc phải nói lên một lời cảm tạ. Tôi muốn nói
với các bạn rằng nếu bạn còn một của cải vật chất hay tinh thần nào đó
mà bạn dành cho Hài Nhi, thì hãy phân phát cho người khác; các bạn hãy
đến bên Hài Nhi như tôi, đến với sự khó nghèo trong lòng và với hai bày
tay trắng, thì rồi các bạn sẽ nhận được tất cả.
Khổng Nhuận
Sau
khi Vị Đạo Sĩ Thứ Tư tạm biệt Hài nhi Giêsu, mãi tới năm 1985 một vị
Đạo Sĩ Thứ Năm – sống vào cuối kỷ thứ Hai mươi – mới lên đường.
Vào lúc này, ngôi sao Belem đã biến mất từ đời thủa nào rồi, nên Vị Đạo Sĩ Thứ Năm – bất cứ Kitô hữu nào cũng vốn là Vị Đạo Sĩ Thứ Năm – chỉ còn có thể nhìn lên bầu trời Kinh Thánh để tìm xem ngôi sao nào sẽ hướng dẫn mình tới Chúa .
Sau đây là tâm tình chia sẻ về kinh nghiệm tìm kiếm ngôi sao của Vị Đạo Sĩ Thứ Năm:
Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi phải tìm kiếm từng tia sáng một, có khi cả tuần mới bắt gặp một tia sáng, chứ không phải thấy ngay một lúc vì sao sáng chói – huy hoàng ánh quang.
Đây là một quá trình cam go nhưng đầy thú vị với những khám phá bất ngờ trong niềm vui lâng lâng.
Tôi
không tài nào viết được vỏn vẹn trong vài trang toàn bộ công cuộc khám
phá những tia sáng và tập sống trong ánh sáng suốt gần 20 năm qua, vì
thế tôi chỉ tóm gọn hết sức và dẫn chứng một vài kinh nghiệm chập chững trong năm đầu tiên qua các đề mục sau:
1/ Mục đích
Nghe người ta nói quá nhiều về Thiên Chúa, thế mà tại sao tôi không cảm nhận được Ngài?!. Thế là tôi quyết định lên đường tìm chân lý mà cụ thể là khám phá ra Thiên Chúa của lòng mình .
2/ Phương pháp kiếm tìm
* Đọc Kinh Thánh: Vào lúc đó, thất nghiệp dài dài, chẳng biết làm gì, tôi bèn mang Kinh Thánh ra đọc thật kỹ, ghi chú cẩn thận những câu nào hay theo từng chủ đề
như: Chúa Cha, Đức Giêsu, Thần Khí, Tình yêu, Sống đời đời, Ánh sáng,
Tự do…. đầy một cuốn 100 trang. Lần đầu tiên trong đời, tôi đọc nghiêm
chỉnh từ đầu đến cuối cuốn Tân Ước nhỏ xíu của dịch giả Nguyễn Thế
Thuấn.
Sau đó tôi đọc lại lần thứ hai, lần này tôi bỏ bớt những câu không còn hay lắm, mà chỉ ghi lại những câu mà mình thích thôi – chiếm khoảng 70 trang
Lần thứ ba, tôi chép lại trong cuốn sổ tay và chỉ ghi lại những câu tâm đắc nhất chỉ còn khoảng 50 trang. mỗi ngày mang ra đọc đi đọc lại cho nó thấm vào đầu của mình. đây cũng chính là mục đích của việc đọc Kinh Thánh.
* Suy niệm
Nói là suy niệm, nhưng tôi chỉ có niệm chứ không có suy. Tôi ngồi nghiêm chỉnh, và niệm một vài câu do tôi tự chế ra như:
Chúa sống trong tôi, tôi sống trong Chúa.
Chúa thấm nhập tôi, tôi thấm nhập Chúa.
Chúa thấm nhập tôi, tôi thấm nhập Chúa.
Tôi cứ niệm đi niệm lại một cách rất từ từ chậm rãi để nghe được sự thấm nhập của Chúa vào lòng mình – và mình vào lòng Chúa.
Lúc đầu, chẳng cảm thấy gì, nhưng tháng này qua tháng khác, Chúa dường
như ngủ quên trong tôi từ từ thức dậy – hay nói cho đúng hơn – bấy lâu
nay tôi ngủ mê mệt từ từ tỉnh dậy để nhận ra Chúa vẫn đang sống mãnh liệt trong tôi.
Sau
này, khi tôi chia sẻ với bà xã của tôi. Cô nàng cũng thử, nhưng thấy nó
kỳ quá, giống như của ai đó, chứ không phải của mình. Thế là cô nàng
chế ra một câu khác hợp với mình hơn.
Mục đích của việc niệm này để nó thấm vào tâm của mình. Nhờ đó tôi dần dần cảm nghiệm Chúa thực sự hiện diện và cùng sống với mình.
* Chia sẻ
May
mắn thay, ngay trong thời gian đó, một anh bạn cũng tự nhiên muốn lên
đường tìm kiếm chân lý. Thế là, trên dường về nhà, anh ấy đều ghé qua
chỗ tôi ngồi bán bánh ngọt. Hai anh em trao đổi với nhau khoảng 2 tiếng
đồng hồ mỗi ngày. Chúng tôi chia sẻ cho nhau những khám phá mới, đặt câu hỏi, thậm chí còn như đưa những vấn nạn hóc búa để cả hai phải suy nghĩ suốt cả tuần:
Sứ mệnh chính yếu nhất của Đức Giêsu khi xuống trần gian là gì?
Sứ mệnh chính yếu nhất của bạn là gì?
Tại sao bạn sinh ra?
Linh hồn của bạn ra sao? Nó xuất hiện lúc nào? Bản tánh của nó ra sao?
Hãy nhìn tới 2 quán càfê cóc ở đằng kia. Uống ở quán nào là đúng theo ý Chúa?
Sứ mệnh chính yếu nhất của bạn là gì?
Tại sao bạn sinh ra?
Linh hồn của bạn ra sao? Nó xuất hiện lúc nào? Bản tánh của nó ra sao?
Hãy nhìn tới 2 quán càfê cóc ở đằng kia. Uống ở quán nào là đúng theo ý Chúa?
Và
hàng trăm câu hỏi khác… dù ngay trong thời gian đó, chúng tôi chưa tìm
ra câu trả lời, nhưng đó chính là những động lực khiến chúng tôi phải
động não mà suy tư. Nhờ thế mà chúng tôi tiến rất nhanh. Chỉ trong khoảng 6,7 tháng, chúng tôi đã tìm kiếm được khá nhiều tia sáng gom góp thành một vì sao nho nhỏđủ để chúng tôi khám phá ra khuôn mặt đích thực của Ngài.
3/ Kết quả
Đây là những tia sáng mà tôi nhớ nhất:
* Khám phá đầu tiên khiến tôi sướng đến ngất ngây, đó là tôi nhận ra Chúa yêu thương tôi từ muôn thủa - chứ không phải mới thương từ khi tôi có trí khôn.
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ tình thương của Người. (Ep 1:4)
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ tình thương của Người. (Ep 1:4)
* Khám phá tuyệt vời thứ hai giúp tôi thoát khỏi gánh nặng ngàn cân đè nặng tâm trí tôi biết bao năm qua, đó là tôi không còn bị ám ảnh trước sự khủng khiếp của sự chết và phần phạt, Thế là gông cuồng xiềng xích đã hoàn toàn bị chặt gẫy khi tôi tin rằng :
Vậy
giờ đây, những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su, thì không còn bị lên án
nữa. Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã
giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết (Rm 8:1-2)
*Khám phá quyết định thứ ba:
Không phải đợi tới khi xuôi tay lìa đời, mà là Ngay từ lúc này tôi đã thoát khỏi luật của sự tôi và sự chết để bắt đầu một cuộc sống mới viên mãn trong Chúa:
Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống (Ga 5:25).
Từ đó, tôi khám phá ra “Sơ đồ sống đạo” đơn giản như sau:
Từ muôn thủa Chúa đã yêu tôi. Một ngày đẹp trời nào đó, Ngài sinh tôi từ trái tim yêu thương của Ngài.
Suốt cuộc sống trần thế này, Ngài yêu thương ấp ủ tôi đêm ngày.
Cuối cùng, cũng một ngày đẹp trời nào đó, ngài gọi tôi trở về ngay nơi mà tôi xuất phát – đó chính là con tim thổn thức yêu thương của Ngài.
Xin ghi chú: Một ngày đẹp trời nào đó:
thực ra nói cho có vẻ văn thơ chứ không nhất thiết là hôm đó phải là
ngày hào quang rực rỡ..Có khi đó là một ngày mù sương, có khi đó là một
đêm giông bão…nhưng theo ánh mắt tâm linh thì tất cả đều là ngày đẹp
trời.
Chính khám phá này mở ra cho tôi một đại lộ sống đạo thêng thang
thoải mái. Biết được nơi mình xuất phát và nơi mình trở về thì không
còn gì phải lo lắng nữa. Lúc đó tôi mới thấm được lời Đức Giêsu nói:
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”(Ga 14:3-4)
“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em”(Ga 20:17)
Đức Giêsu lên cùng Cha thì tôi cũng lên cùng Cha chứ không lẽ tôi lại đi lang thang ở một góc trời tăm tối nào?!!
* Quan niệm về thế gian:
Trước kia, tôi nhìn thế gian này là thực – rất thực – và tôi bị nó quay
như dế. Tôi buồn vui, sướng khổ theo nó như cách bèo vô định trên dòng
sông cuộc đời.
Thế rồi một buổi sáng tháng 7 . 1985, đang đi trên đường , tôi thấy người ta, xe cộ đi lại, nhưng hôm ấy tôi bỗng thấy rất lạ – thực đó mà dường như không thực.
Từ kinh nghiệm tuyệt vời này, cuộc sống tôi bắt đầu thay đổi:
Tôi sống trong thế gian nhưng tôi không thuộc về thế gian này.(Ga 8:23)
Thế
là từ đó tôi hân hoan sống giữa chốn hồng trần. Dù khó khăn vẫn giang
mắc khắp nơi, nhưng tôi không còn cảm thấy nặng nề, khổ sở như trước kia
nữa, mặc dù lúc đầu cũng cảm thấy khó chịu một chút.
* Nhờ những tia sáng khám phá trên, tôi dần dần xác tín Chúa thực sự yêu thương tôi, hiện diện và sống trong tôi. Từ đó, cuộc sống đạo của tôi cực kỳ thoải mái, bình an và hạnh phúc – một niềm hạnh phúc êm đềm nhưng sâu thẳm vững bền: “để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.(Ga 15:11)
Từ đó tới nay, thấm thoát đã gần 20 năm. Ánh sao – mà Đạo Sĩ Thứ Năm phát hiện – cho tới nay, ngày càng rực sáng.
Có một điều rất lạ: Vị Đạo Sĩ Thứ Năm bỗng thấy mình trở thành ánh sao lúc
nào không hay. Tới phiên mình Vị Đạo Sĩ Thứ Năm bắt đầu làm nhiệm vụ
khích lệ những Vị Đạo Sĩ Thứ Năm khác hăng hái lên đường tìm kiếm Chúa
để cuối cùng cũng trở thành ánh sao dẫn đường.
Không chỉ là những ánh sao lẻ loi cô độc
mà kết thành một giải ngân hà sáng chói rực rỡ ánh hào quang
cho hàng triệu Vị Đạo Sĩ Thứ Năm khác nữa.
23. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I/ Dẫn vào Thánh lễ
Ðức
Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà
thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả
mọi người nữa.
Hôm
nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Ðức Giêsu đã tỏ
mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện
cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa; và cho
chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II/ Gợi ý sám hối
- Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
- Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
- Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III/ Lời Chúa
1/ Bài đọc I: Is 60, 1-6
Mặc
dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi
hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu
hút muôn dân tuôn đến:
- Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên
thực tế, dân Do Thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết.
Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Như vậy, giấc mơ của
Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Ðức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng
đến trần gian.
2/ Ðáp ca: Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Ðức Giêsu.
3/ Tin Mừng: Mt 2, 1-12
Các
“đạo sĩ” là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Ðông xứ Palestine.
Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Ðấng cứu
tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng
cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có
lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện
lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như
thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân,
đang khi các nhà trí thức Do Thái ở Giêrusalem dù thông thạo Thánh Kinh
nhưng đã không nhận ra Chúa.
IV/ Gợi ý giảng
1/ Ý nghĩa thật của ngôi sao lạ
Nhiều
người vẫn nghĩ rằng ngày xưa có một ngôi sao lạ xuất hiện trên vùng
trời Phương Ðông để dẫn đường các đạo sĩ. Sao đi trên trời, người đi
dưới đất, và khi đến Bêlem thì ngôi sao dừng lại, chiếu một luồng ánh
sáng xuống đúng nơi mà Chúa Hài Ðồng đang ở. Thế là các đạo sĩ vào nhà,
quỳ xuống thờ lạy Ðức Giêsu và dâng lễ vật cho Ngài.
Những
người biết khoa học chút ít đều coi đây là chuyện hoang đường: làm sao
bước chân con người có thể theo kịp tốc độ di chuyển của tinh tú!?
Sự thật hay là hoang đường?
Xin
thưa, đây là một cách viết, khai thác một hình ảnh để diễn đạt một chân
lý. Theo cách viết của Thánh Matthêu, lý do thúc dục các đạo sĩ lên
đường là vì “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài xuất hiện bên Phương
Ðông”. Matthêu không hề viết là ngôi sao cùng sánh bước với các đạo sĩ
trên khắp những đoạn đường từ Phương Ðông đến Giêrusalem. Bởi đó họ phải
đi tìm, và khi đến Giêrusalem họ phải hỏi người khác nữa. Câu trả lời
giúp họ biết hướng để tiếp tục cuộc hành trình chính là một câu Sách
Thánh. Mãi khi đến gần Bêlem thì Ngôi Sao mới xuất hiện lại để dẫn họ
đến chỗ Hài Nhi đang ở.
Tóm
lại, Ngôi Sao là một dấu chỉ thôi thúc lên đường. Nhưng cuộc hành trình
đòi hỏi phải cố gắng, kiếm tìm, dò hỏi nhiều nơi, nhiều người, nhất là
Sách Thánh. Và cuối cuộc hành trình, dấu chỉ lại rực sáng như để xác
nhận rằng cuộc hành trình đã đạt đến điểm tới.
2/ Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
-
Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý
(Thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Ðiều lạ lùng này mời gọi người
ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa
hơn, tốt đẹp hơn.
-
Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con
đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao
sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
- Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Ðó
là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là
cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần
gũi thân tình hơn.
3/ Lên đường
Có
những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có
những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư? Ông đã có các chuyên
viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền.
Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn
thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những
kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người
ở đâu, Ðức Giêsu ẩn dấu của thời đại? Trong làng quê heo hút nào, trong
gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người? “Ta
đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi
làm cho chinh Ta” (Mt 25, 35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có
lời Kinh Thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng
kẻ quấy rày ư? Ðức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người
để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên
được tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm
thấy Người (…) Ðọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh
gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều
khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm
lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để
tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh,
chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên được tìm kiếm Ðức Giêsu và họ đã gặp
Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch
bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
4/ Ánh sáng và bóng tối
Nhà
đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một
hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi
sao Jupiter và Saturn rằng: Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau.
Năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng
hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường
và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Ðông”
(Mt 2, 2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được
báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia
thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định
mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận
ra sự sinh hạ của Ðấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả
thật, người Do thái đã trông đợi Ðấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Ðấng ấy
được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen ” (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi
Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi,
Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen ” (Mk 5, 1).
Nếu
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong
hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho
các đạo sĩ đến Belem để gặp Ðấng Cứu Tinh.
Nhưng
có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao
thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư
thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi
sinh của Ðấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình
bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên
đường. hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và
khi tìm được rồi, Ðấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương,
không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận,
xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Ðức Giêsu đã phải thốt lên: “Từ
phương Ðông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ
bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài ” (Mt 8, 11-12).
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ
ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Ðấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là
những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu
thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng
ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu
Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5, 14), thì đó là một
vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng
ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những
ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để
cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Chúng
ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy
can đảm thắp sáng những ngọn nến còn trong bóng tối lầm lạc và tội lỗi,
để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.
Lạy Chúa Hài Ðồng,
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.
Xin
cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con
có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi
người. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
5/ Ánh sáng Ðức tin
Arthur
Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại
lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc
về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”
Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình
phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”
Anh
liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết
thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn
nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh
vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc
tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện có người đến nói với anh:
– Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
– Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng đức tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực Hoàng gia. Ðúng như lời Ðức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian”
(x. Mt. 5, 14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo
sĩ, ngôi sao Tin mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối
của chúng ta. Ðể từ đây, ánh sáng Ðức tin luôn chiếu tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào Lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gia nan thử thách.
Các
đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Ðấng Cứu Tinh
mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ
dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc,
nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Ðức tin, con
đường của họ là con đường thánh giá.
Ðể
giữ vững đức tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản
thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin.
Tổng giám mục Fulton Sheen khẳng định: “Ðể trắc nghiệm Ðức tin của chúng
ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc
đời lên hương, thuận buồm xuôi gió”.
Như
các đạo sĩ tìm lại ánh sao khi lạc mất, người tín hữu Kitô luôn được
mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà
chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
- Một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta.
- Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
- Một lời khuyên nhắc nhở chân tình.
- Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu
cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt
mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là
những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao.
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”
Ðức
Gioan Phaolô II trong Giáo lý năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân
tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều
hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý
mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một
cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng lan tỏa khắp thế giới. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
6/ Ông vua thứ tư
Có
một truyền thuyết cho rằng những người khách từ phương Ðông tìm đến thờ
lạy Chúa Hài Ðồng là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có
một truyền thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ
tư nữa, tên là Artaban. Sau đây là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng
như 3 vị vua kia, Artaban cũng thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ
vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai,
Ông lên đường tiến đến điểm hẹn với 3 vị vua kia. Tuy nhiên dọc đường
ông gặp một người bị thương nặng đang nằm bên vệ đường, ông phải dừng
lại đưa người đó đến một lữ quán nhờ chăm sóc. Vì thế khi đến điểm hẹn
thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Cần
có một con lạc đà để có thể đi băng qua sa mạc, ông bán viên bích ngọc
đi để mua lạc đà. Nhưng khi tới Bêlem thì lại trễ, vì Thánh Giuse và Ðức
Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban
đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người đàn bà
bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám
lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp
chúng và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào lữ quán. Ông rất buồn vì
giờ đây lễ vật ông định dâng Chúa Hài Ðồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc
trai.
Ông
lại lên đường tìm Chúa Hài Ðồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Ðức
Giêsu đang ở đâu ông đều tìm đến nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi
khác. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin
người ta sắp đem Ðức Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã
tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống
Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái đang bị quân
lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô
để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để
cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều
hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa
đều rung rinh, ngói nhà bay tứ tung. Một viên ngói rơi trúng đầu ông.
Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi Golgotha. Artaban không gặp
được Ðức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Tuy
nhiên, nhìn theo một phương diện khác thì Artaban đã thực sự gặp được
Ðức Vua của lòng ông, bởi vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị trong
lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những
việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của
ông.
Ai đang đi tìm Chúa với trọn niềm tin yêu hy vọng thì đã gặp được Chúa rồi.
V/ Lời nguyện cho mọi người
Chủ
tế: Anh chị em thân mến, Chúa đã muốn cứu độ tất cả mọi người, và Người
đã dùng ánh sao lạ để hướng dẫn muôn dân tìm đến Ðức Giêsu, Ðấng Cứu độ
duy nhất. Chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1/
Ðức Giêsu đã thiết lập Hội thánh và sai đi đến với mọi người / Xin Chúa
cho Hội thánh luôn trở thành ánh sáng hướng dẫn muôn dân tìm đến ơn cứu
độ của Chúa.
2/
Chúa đã ban quyền cho các nhà cầm quyền trong xã hội / Xin Chúa hướng
dẫn họ thi hành quyền hành đối với mọi người theo lẽ công bằng, theo sự
thật, và luôn tôn trọng nhân phẩm của mỗi người.
3/
Chúa đã muốn cứu độ mọi người không trừ ai / Xin Chúa cho những người
chưa biết Chúa, những người từ chối Chúa, và những người chống đối Chúa
sớm nhận ra ánh sáng chân lý và tình thương của Chúa.
4/
Mỗi Kitô hữu đều phải là ánh sáng cho đời / Xin Chúa cho anh chị em
giáo hữu trong họ đạo chúng con / luôn sống đúng với Tin mừng của Chúa /
để trở thành ánh sao dẫn đường cho người chung quanh trở về với Chúa.
Chủ
tế: Lạy Chúa, lễ Hiển Linh hôm nay nhắc cho chúng con nhớ đến trách
nhiệm của Kitô hữu là phải luôn tìm kiếm Chúa để gặp gỡ và sống hiệp
thông với Chúa, đồng thời cũng phải giúp anh chị em chung quanh chúng
con tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức và chu
toàn trách nhiệm đó. Chúng con nguyện xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.
VI/ Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh những chỗ sau đây:
+
(Sau lời Truyền phép, đoạn 3): “Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi
chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha (như những lễ vật mà các
đạo sĩ ngày xưa dâng cho Chúa Hài đồng)…
+
(Ðoạn cầu cho Hội Thánh): “… Xin cho Hội Thánh Cha trong cuộc lữ hành
trần thế được đức tin vững vàng và lòng mến sắt son (Xin cho Hội Thánh
nhiệt thành loan báo mầu nhiệm Tình thương bao la của Cha muốn cứu độ
tất cả mọi người)…
+
(Ðoạn cầu cho những kẻ qua đời): “Xin Cha nhớ đến anh chị em tín hữu
chúng con đã lìa cõi thế, và mọi người sống đẹp lòng Cha mà nay đã ly
trần (cùng linh hồn những người thành tâm thiện chí dù không biết Cha
nhưng lòng vẫn hướng về Cha)…
-
Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn
quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài
thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
-
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái
thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng
con thành những kẻ xây dựng bình an giữa mọi người không phân biệt tín
ngưỡng, giai cấp, trình độ, hoàn cảnh…
VII/ Giải tán
Ngày
xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay
Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh
em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta
hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
24. MÓN QUÀ CỦA CÁC ĐẠO SĨ
Cha Mark Link, S.J.
“Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu”
William
Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế
kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc
giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông
bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng
của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo sĩ“. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng
sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì
đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế
nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết
định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng
hồ.
Hôm
áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp,
trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái
tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim
rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có
buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời
nàng thôi.
Dela
leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa. Nàng mở
cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại
thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn
của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì
cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela
mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ
lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món
quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp
có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của
chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng
vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.
Có
những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng
bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho
kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những
món quà đó biểu tượng và nói lên.
Câu
chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay,
cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O.
Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì
những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế.
Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng
ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp
xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày
đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có
tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn
của con người.
Vì
thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó
nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị
thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được
toàn bộ mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô
đơn… , Ngài cũng không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây
giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong
việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ
liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món
quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thiên tính của Đức Giêsu. Thánh
Phaolô đã nói về Thiên tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo
dân ở Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở
nên giống người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và
chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả
nhất trên trời” (Pl 2: 6-9)
Cuối
cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi
thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở
bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối
với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người
khác ủng hộ, cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính
là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có
chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc
mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta
đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.
Hiện
nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ
Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra
với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu
tự tỏ mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng
việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là
“Lễ của Chư Dân”.
Những
gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng
ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng
cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng
chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc
trên thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc
lấy xác thịt và sống giữa chúng ta. Chúng ta phải nói cho họ biết rằng
Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào
thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời
đại nữa.”
Đức
Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới,
thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà
trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình,
yêu thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt.
đó chính là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ
điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi
người chúng ta phải hành động.
Tôi
xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài
thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất
sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu
“Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà nhạc bằng trái tim”.
0 Nhận xét