Phần 3: HÓA GIẢI SỰ DỮ THEO THÁNH ÂU TINH, THÁNH I-RÊ-NÊ VÀ THÁNH THOMAS.
Bài này trình bày cách hóa giải sự Dữ của 3 vị thánh thuộc các thời đại khác nhau: Thánh Âu-Tinh thuộc thế kỷ thứ 4-5, Thánh I-rê-nê thế kỷ 2-3 và thánh Thomas Aquino, thế kỷ 13.
1. Hóa giải sự dữ theo thánh Âu Tinh và quan điểm loại suy thẩm mỹ (aesthetic analogy)
Cách hóa giải này được truyền thống Kitô giáo như các giáo phụ phương
Tây, những nhà thần học Trung cổ và nhiều học giả ngày nay cùng chia sẻ.
Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thiện tính của Ngài được bộc lộ trong
hành vi sáng tạo, do đó mà mọi tạo vật đều có tính bản thiện. Tuy nhiên,
sự dữ cũng thực sự hiện hữu, nhưng chúng chỉ hiện hữu khi khiếm khuyết
sự thiện, như bóng tối xuất hiện khi thiếu ánh sáng. Người ta tự hỏi tại
sao Đấng Tạo Hóa không sáng tạo mọi sự ở cấp hoàn hảo nhất, không còn
chỗ cho những khiếm khuyết xen vào? Thánh nhân trả lời: Cần có nhiều
loại hữu thể được sáng tạo ở những cấp độ hoàn hảo khác nhau, nhờ đó sự
phong phú và vẻ huy hoàng càng nổi bật.
Trong tương quan với sự thiện mà sự dữ có ý nghĩa: Quan điểm loại suy
thẩm mỹ. Kinh nghiệm thực tế về thẩm mỹ cho hay sự tương phản thường làm
cho thực tại tăng thêm vẻ đẹp. Như trong một bản nhạc, đôi khi có những
nét nhạc không hoà điệu, một cách nào đó lại có thể làm cho toàn bộ bản
nhạc thêm tuyệt vời. Hoặc như những bức tranh của Rembrant, chúng nổi
tiếng là nhờ sử dụng kỹ thuật tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Vậy
nếu ta bị “sốc” bởi sự bất hoà của vũ trụ, đó là chúng ta không hiểu
được bản giao hưởng của vũ trụ trong tổng thể của nó. Sở dĩ một chi tiết
của một bức tranh làm chúng ta khó chịu, là vì chúng ta thiếu cái nhìn
tổng quan vốn đem lại ý nghĩa cho từng chi tiết. Tương tự, sự dữ làm
phát ra vẻ rực rỡ của điều thiện. Nó là phương thế cần thiết để đạt tới
sự hài hoà tuyệt mức của thế giới.
Chúng ta nên biết, sau này Leibniz cũng đã khai triển ý tưởng này để
biện minh cho Thiên Chúa: “Sự dữ không còn là sự dữ nữa, nếu nó là một
khoảnh khắc cần thiết trong tiến bộ của cả lịch sử nhân loại”.
Những khó khăn của cách hóa giải này:
Thật khó chấp nhận quan điểm sự dữ là phương thế cần thiết để đạt tới sự
hài hòa tuyệt mức của thế giới. Trước biến cố sát hại hàng triệu người
Do thái trong trại tập trung của Đức quốc xã, người ta tự hỏi làm thế
nào những kẻ như Hitler lại có thể dự phần vào sự hoàn hảo của thế giới?
Và làm sao có thể chấp nhận quan điểm chủ trương hy sinh các thế hệ
hiện tại, nếu cần, để giúp đạt tới những ngày mai tươi sáng? Đối với
chúng ta, con người là một giá trị tuyệt đối, không bao giờ là một
phương tiện, nên không bao giờ được phép coi con người như một bánh xe
trong một cỗ máy để có thể thay thế, hy sinh cho một tương lai mơ hồ.
Mỗi một thời điểm đều được Thiên Chúa coi trọng và không thể biện minh
cho những tiến bộ trong tương lai bằng cách lập luận rằng Thiên Chúa chủ
ý muốn sự đau khổ cho bất kỳ một người vô tội nào của ngày hôm nay. Do
đó, Dostoievski đã có lý khi nói qua miệng của một trong những người anh
em của Karamazov những lời này: “Ngay cả khi cái xưởng mênh mông này sẽ
mang lại những điều kỳ diệu tuyệt vời nhất, và điều đó chỉ phải trả
bằng một giọt lệ duy nhất của một đứa trẻ thì tôi cũng phản đối”.
Hơn nữa, người ta cũng khó chấp nhận lối nhìn của kẻ bàng quan, đứng
ngoài xem tranh. Thái độ đó không làm cho sự dữ mất đi, mà còn là cơ hội
cho sự dữ tăng gấp bội. Trong tác phẩm: “Hai nguồn tôn giáo và luân
lý”, Bergson đã nhận định: “Các triết gia vẫn hài lòng với những lập
luận kiểu đó một mình trong bàn giấy, nhưng họ sẽ nghĩ sao trước cảnh
một bà mẹ vừa mới chứng kiến con mình chết thảm khốc? Không, đau khổ là
một thực tại, có thể làm lu mờ khía cạnh Thiên Chúa quan tâm tới con
người cách cá vị hoặc tệ hại hơn có thể gây hiểu lầm: con người chỉ là
thành phần hay đơn vị có thể bị hy sinh vì lợi ích của tập thể một cách
tuỳ tiện.
2. Hóa giải sự dữ theo thánh Irênê
Cách hóa giải sự dữ theo thánh nhân sau này được các nhà thần học Đức,
Friedrich, Schleiermarcher và học giả người Anh, John Hick khai triển.
Lập trường cơ bản của ông là theo kế hoạch của Thiên Chúa, thế giới này
phải là môi trường phát triển của con người, ngõ hầu đạt tới tầm vóc
sung mãn ơn gọi làm con Thiên Chúa. Sự phát triển này đòi hỏi một tiến
trình lâu dài trong một môi trường thích hợp. Đó là môi trường hỗn hợp
giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối, nhờ đó con người có
thể vận dụng tự do của mình để thực hiện ơn gọi.
Sự hiện hữu của sự dữ luân lý
Nếu chỉ nhằm mục tiêu: sự thiện phải hiện hữu bằng bất cứ giá nào, Thiên
Chúa có thể trang bị cho thế giới này tràn đầy những người máy, được
lập trình hoàn hảo, chỉ biết làm điều thiện. Nhưng những rôbốt như thế
không bao giờ có thể phát triển tới tầm mức con cái tự do của Thiên
Chúa. Đạt tới ơn gọi làm con Thiên Chúa, tuỳ thuộc con người vận dụng
khả năng lựa chọn, đáp trả hay khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa. Chỉ
trong tự do, con người mới có thể đi vào mối tương quan tình yêu với
Ngài. Đó là lý do biện minh tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ luân lý có
mặt trong thế giới này. Do đó, có thể nói, chính tự do phải chịu trách
nhiệm về sự dữ luân lý.
Nhưng với tư cách một Thiên Chúa toàn năng, Ngài vẫn có thể loại trừ mọi
sự dữ hay đau khổ chứ? Dĩ nhiên rồi. Vậy tại sao Ngài không làm thế?
Giả sử chúng ta sống trong một thế giới mà Thiên Chúa không ngừng can
thiệp để loại trừ bất cứ sự dữ hay đau khổ nào khỏi cuộc sống con người
thì, một sự can thiệp như thế sẽ đồng nghĩa với việc phải loại bỏ mọi
luật lệ thiên nhiên. Chẳng hạn, Thiên Chúa luôn phải làm cho sức nóng
của ngọn lửa đang có nguy cơ đốt cháy người hay vật trở thành vô hiệu,
hay phải thay đổi bản chất của nước đang có nguy cơ nhận chìm con người
và thiên nhiên. Một sự can thiệp như thế khiến cho thế giới này không
còn khả năng tiên liệu, do đó khoa học và kỹ thuật cũng không còn cơ may
phát triển. Đàng khác, một sự can thiệp như thế khiến thế giới này
không còn những thách đố phải vượt qua, không còn những vấn đề phải giải
quyết, như vậy cũng làm tiêu tan ý nghĩa cuộc sống: Tính cách luân lý
không còn cơ hội phát triển, tình thương không còn môi trường để bộc lộ.
Không còn chỗ cho sự tự hiến. Ơn gọi làm con Thiên Chúa thể hiện trong
mối tương quan tình yêu không thể thành hiện thực. Nhìn dưới những góc
độ này, những thử thách và đau khổ có thể có những giá trị tích cực.
Những khó khăn của cách hoá giải này
Tính hấp dẫn của khảo hướng này không có thể phủ nhận. Thực vậy, những
thử thách và đau khổ về thể lý lẫn tinh thần có thể là trường đào luyện ý
chí của những tâm hồn cao cả. Nó có thể là cơ hội hay điều kiện để đạt
tới một sự thiện hảo lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, sự bất hạnh
thường làm cho con người đi chệch hướng hơn là làm cho nó chỗi dậy.
Trong nỗi bất hạnh, nếu họa chăng có được những cuộc chinh phục thì luôn
luôn chỉ là một phần nhỏ so với cái nền của sự thất bại. Nếu sự dữ có
mang lại lợi ích nào thì cũng phải trả giá bằng biết bao sự huỷ hoại. Vì
thế người ta tự hỏi: để trưởng thành, con người không còn phương pháp
nào khác hơn là đau khổ sao? Vì thế Maxscheler nói: rất có thể có thầy
dạy khác ngoài sự đau khổ giúp con người trưởng thành thật sự.
Đàng khác, quan điểm trên có thể mặc nhiên cho rằng Thiên Chúa trực tiếp
dính líu vào sự ác và đau khổ, làm cớ cho con người phủi tay trước
những sự ác mà nó gây ra.
3. Hóa giải sự dữ theo thánh Thomas
Cách hóa giải của thánh nhân nhằm biện minh rằng Thiên Chúa không phải
là tác giả sự dữ. Thánh nhân đã sử dụng những ý niệm siêu hình về hữu
thể để xây dựng lý thuyết của mình và trình bày vấn đề trong Tổng luận
thần học, phần I chương 48-49.
Theo ngài, sự dữ không phải là một tạo vật, mà sự thiếu sót hay khiếm
khuyết sự thiện trong bất cứ tạo vật nào. Như thế trên bình diện hiện
hữu đều tốt lành hay thiện hảo. Sự thiện là điều mọi người mong và không
có gì đáng ước mong nếu nó không hiện hữu. Có hiện hữu mới làm cho vật
khác yêu thích được. Vì thế, người ta chỉ nhận ra sự dữ trên bình diện
cách thế hiện hữu của nó mà thôi. Sự dữ được biết đến là do một hữu thể
nào đó thiếu hay khiếm khuyết một sự thiện nào đó, như bóng tối được
nhận biết là do thiếu ánh sáng. Tự nó, sự dữ không thể hiện hữu được.
Thánh Thomas định nghĩa sự dữ là thiếu hay khiếm khuyết một sự thiện hảo
nào đó đáng lẽ một vật phải có. Đôi mắt là sự thiện hảo phải có của con
người, nên người khiếm thị được coi là người bất hạnh. Thiếu điều thiện
hảo không thuộc về bản chất của mình thì không thể coi đó là sự dữ.
Thiếu đôi cánh không thể được coi là bất hạnh đối với con người. Khi
định nghĩa sự dữ là một thiếu sót hay khiếm khuyết trong tạo vật, thánh
nhân không hề muốn làm giảm nhẹ hiệu quả và tính bi đát của sự dữ. Hậu
quả của sự dữ vật lý cũng như luân lý thật tồi tệ, cần phải khuất phục
hay lên án.
Khi thánh nhân đề nghị lối phân tích có tính kỹ thuật như thế, ngài chỉ
muốn khẳng định: sự dữ không có bề dày hữu thể nào hết. Nên Thiên Chúa
không phải là tác giả sự dữ vì Ngài chỉ là nguyên nhân mọi hữu thể.
Tuy nhiên thánh nhân cho rằng sự dữ đôi khi cần cho sự hoà điệu của vũ
trụ. Về phương diện này Thiên Chúa có thể là nguyên nhân gián tiếp sinh
ra sự dữ vật lý. Muốn sinh tồn, các vật trong vũ trụ phải nương vào
nhau. Con người nuôi sống mình bằng những vật hạ cấp. Các vật khác cũng
vậy. Sự tác động qua lại này tạo nên sự quân bình sinh thái, được coi
như một thứ thiện hảo của vũ trụ. Song sự dữ vật lý không đúng nghĩa là
sự dữ.
Dẫu sao cách hóa giải sự dữ theo thánh Thomas nếu tránh được cho Thiên
Chúa trách nhiệm tạo ra sự dữ thì vẫn còn nguyên vấn đề đối với một
Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện. Thế nên trong tập dẫn nhập bình giải
về sách Gióp, ngài đã phải thú nhận: không gì khó hóa giải cho bằng
những đau khổ của người vô tội.
0 Nhận xét