Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh
Lm. PX. Vũ Phan Long,ofm
Gặp
gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ
buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở
gần kề với Người.
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia.
Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được
dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ
mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus)
và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm
“sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn
thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương
này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc
1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ
thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại
đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn
9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ
Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa
Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến
dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ
Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời
cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm
lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên
đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và
Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm
hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22):
“Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật
không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy,
“các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài
là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng
tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina,
nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ
sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có
được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi
12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày:
sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn
phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của
bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh
nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám
mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ
hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non
hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải
dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc
nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu
được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm
vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa
phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng
trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự
thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con
đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc),
tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc
không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc
con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có
chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25):
Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét,
Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do
Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước
khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà
(35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân
tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị
đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không
tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo
tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de
Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm
Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách
giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc:
đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của
các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta
thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng
một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích
này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này
của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is
49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn
dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr
2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu
nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ,
và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức
Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị
thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách
giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard,
Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ
cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt
xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và
tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây
ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien
coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c.
35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc
đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của
người ta phải lộ ra.
Hiểu
như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của
ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một
cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu
độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng
của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp
ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông
Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2)
Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa
khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên
đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm
thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn
ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc,
hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm
duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức
Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc,
chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia
đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria,
ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng
phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x.
8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng
như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và
để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên
cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu
được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs
5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa
ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong
cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra:
(a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc.
22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc.
22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm
1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức
Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành
những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc
đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn
(c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa
đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm
1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã
tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự
cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế,
đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc.
29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu
độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng
của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác
giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện
về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả
của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của
Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới
thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của
bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai
câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ
ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn
c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu
truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được
kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy
Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa.
Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria
và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo
nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1.
Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với
thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có
thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng
ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng
ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù
các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái
tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải.
Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2.
Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống
thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với
Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó,
Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu
niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính
xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời
môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện
cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3.
Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và
trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta
rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với
thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết
ơn.
4.
Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu,
trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa
của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình
này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc
đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức
Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô
thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc
đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương
người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là
cách Thiên Chúa đến viếng thăm…: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế
gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể
khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp
tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ,
loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến
cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực
tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa,
nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua
ngày” (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
0 Nhận xét